Truyện Vợ chồng A Phủ được rút từ tập Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài sáng tác năm 1953. Tập truyện này đã từng được giải nhất giải thưởng văn nghệ 1954 - 1955. Vợ chồng A Phủ là một thành công xuất sắc của Tô Hoài sau cách mạng, là thành tựu của văn học kháng chiến chống Pháp đồng thời là tác phẩm tiêu biểu về đề tài miền núi. Truyện có kết cấu chặt chẽ, dẫn dắt tự nhiên hấp dẫn. Có được điều đó là nhờ cái nhìn hiện thực sắc sảo và chủ nghĩa nhân đạo của nhà văn.
Truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài đã phản ánh được một cách khá chân thực và sinh động bức tranh đời sống xã hội của dân tộc miền núi Tây Bắc trước ngày giải phóng Điện Biên. Đó là một thành công có ý nghĩa khai phá của nhà văn Tô Hoài về đề tài miền núi trong văn học Việt Nam hiện đại.
Dưới ngòi bút của nhà văn người đọc thấy được trong vùng giặc Pháp chiếm đóng thời bấy giờ vẫn tồn tại chế độ lang đạo Thổ Ty, một kiểu phong kiến ở miền núi còn khắc nghiệt tàn ác hơn nhiều so với chế độ phong kiến thực dân ở miền xuôi mà đã được các nhà văn hiện thực khác như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng mô tả chân thực trong các tác phẩm trước Cách mạng tháng Tám. Hiện thân của chế độ lang đạo Thổ Ty dã man ấy là cha con nhà thống lý Pá Tra. Bọn chúng đã lợi dụng và dùng cường quyền cùng hủ tục phong kiến miền núi để biến những người lao động thành nô lệ không công, lao động khổ sai như trâu ngựa để làm giàu cho chúng. Nhà thống lý Pá Tra đã bắt Mị về làm con dâu trừ nợ! Đã bao lần Mị định trốn về với bố nhưng vì đã bị trình con ma nhà thống lý nhận mặt nên đành phải cam chịu chờ đến ngày mà rũ xương ở đây thôi. Sau này A Phủ cũng bị buộc vay nợ nộp phạt và phải ở nợ đời đời, không mong gì thoát ra được. Để củng cố cho chính sách cai trị ấy, chúng dùng tư tưởng mê tín dị đoan tạo thành một thế lực vô hình trói buộc và hù doạ người dân lao động miền núi, làm cho họ sợ hãi, cam chịu trong vòng kìm kẹp. Cướp vợ về trình ma đã đành, cho vay cũng trình ma. Cảnh Pá Tra đốt hương khấn vái lầm rầm kêu con ma về nhận mặt người vay nợ tạo nên một cảnh tượng ma quái hãi hùng như địa ngục trần gian, nơi giam hãm những người dân vô tội.
Ngòi bút giàu tính hiện thực của Tô Hoài cũng đã cung cấp cho độc giả nhũng trang mô tả về cảnh trói người, đánh người tàn nhẫn hơn cả thời trung cổ. Chồng MỊ không xem cô là người, chẳng năm nào cho Mị đi chơi ngày Tết. Khi thấy Mị muốn đi chơi, A Sử liền bước lại xách cả thúng đay trói đứng Mị lại rồi quấn tóc vợ lên cột nhà làm cho vợ không cúi, không nghiêng đầu được nữa. Sau đó hắn trói vợ cũng như thắt cái dây lưng, tắt đèn, khép cửa, dửng dưng lạnh lùng không suy nghĩ, không xúc động. Sau này, khi Mị bóp thuốc cho A Sử, mệt quá thiếp đi, A Sử liền đạp chân vào mặt Mị một cách tàn nhẫn, phũ phàng. Mà Pá Tra đã có lần trói đứng một cô con dâu cho đến chết. Đến lượt A Phủ, bị đánh khi anh dám đánh lại con quan thống lý: A Phủ quỳ giữa nhà chịu đòn, im như cái tượng đá. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. Người thì đánh, người thì quỳ kể lể chửi bới. Cứ như thể suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh. Chưa ở đâu mạng sống và phẩm giá con người bị coi nhẹ như thế!
Qua Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài cũng đã tố cáo một cách xử kiện vô lý quái gở của bọn thống lí và hình thức bóc lột phổ biến của chúng là cho vay nặng lãi để cột chặt người lao động vào số phận nô lệ, phụ thuộc vào bọn chủ. Chứng kiến cuộc xử kiện, chúng ta thấy người phát đơn kiện và đồng thời cũng là quan toà. Và khi kết thúc phiên toà, thì quan toà xì một trăm đồng bạc hoe xoè tiền phí tổn trên mặt tráp bắt người thua kiện sờ tay lên đồng tiền nhận mặt thay cho chữ ký vào bản án chung thân.
Vợ chồng A Phủ không chỉ vạch trần tội ác của bọn phong kiến miền núi mà còn phơi bày tội ác của bọn thực dân Pháp lâu nay đang chiếm đóng Tây Bắc. Bọn chúng đã tìm đến những bản làng xa xôi đốt phá nhà cửa, cướp nhà, cướp cửa và bắt nhân dân phải đi phục dịch cho chúng.
Vợ chồng A Phủ còn là bức tranh chân thực về cuộc sống đau thương bi thảm của người lao động miền núi. Dưới hai tầng áp bức của phong kiến và đế quốc thực dân, người lao động phải chịu đựng biết bao nỗi khổ đau. Cuộc đời của Mị và A Phủ trước khi bỏ trốn khỏi Hồng Ngài về Phiêng Sa trong lòng bàn tay cha con Pá Tra là tượng trưng cho nỗi khổ đó. Mị vốn là một cô gái đẹp mang trong mình biết bao nhiêu phẩm chất tốt đẹp. Thế mà kể từ khi bước chân về làm con dâu trừ nợ, thực chất là nô lệ không công cho nhà thống lý, dưới mắt tầng áp bức cường quyền, thần quyền và hủ tục phong kiến miền núi, Mị phải sống một chuỗi ngày đau thương tăm tối tủi nhục. Mị không chỉ bị hành hạ về thể xác mà còn bị đầy đoạ về tinh thần...
Sự đau khổ tủi cực đã cướp mất tuổi thanh xuân của Mị, biến cô thành một kẻ cam chịu. Cô gái Mèo trẻ đẹp, tài hoa, giàu lòng yêu đời thủa nào giờ gần như đã chết, chí còn là người đàn bà thân xác héo khô, tâm hồn lạnh lẽo trống vắng, Mị ngày càng không nói.
Mị mất hết cảm giác thời gian, không dĩ vãng, không hiện tại, không tương lai. Cuộc đời Mị chỉ còn thu nhỏ lại qua cái ô cửa sổ bằng bàn tay mờ mờ trăng trắng không biết sương hay nắng. Mị gần như tê liệt hết sức sống lùi lũi như con rùa trong xó cửa. Băng những chi tiết ấy, Tô Hoài đã làm cho bức tranh hiện thực càng thêm sinh động, vừa có chiều rộng, vừa có chiều sâu.
Sự xuất hiện của nhân vật chính A Phủ cũng bị bắt làm con ở trừ nợ đã làm hoàn chỉnh thêm bức tranh hiện thực và giá trị tố cáo của tác phẩm. A Phủ là một chàng trai khoẻ mạnh, gan góc yêu chính nghĩa, vốn không nợ nần gì nhà thống lý Pá Tra, lại lao động giỏi, sống phóng khoáng tự do như con chim trời giữa núi rừng Tây Bắc. Vậy mà cuối cùng cũng không thoát khỏi ách áp bức của bọn chúa đất phong kiến, phải rơi vào thân phận kẻ nô lệ suốt đời trong nhà thống lý Pá Tra. Chỉ vì dám đánh lại con quan là A Sử trong việc phá đám chơi ngày Tết mà A Phủ bị bắt về làm đứa ở gạt nợ, làm con trâu, con ngựa cho nhà thống lý. Cũng như Mị, những ngày sống ở nhà Pá Tra, A Phủ chịu biết bao sự đày đoạ nhục hình cả thể xác lẫn tinh thần. A Phủ gần như tê liệt hết sức phản kháng. Anh đã từng phải ngồi im như tượng đá để chịu đòn và phải bất lực để cho những dòng nước mắt chảy trong những đêm bị trói đứng trong góc nhà, thần chết dường như đã vẽ những nét đen ngòm trên hai hõm má xám đen lại vì tuyệt vọng và đau khổ của A Phủ.
Giá trị nhân đạo là giá trị cơ bản của tác phẩm văn học chân chính. Nó được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc đối với nỗi đau của con người, sự nâng niu, trân trọng những nét đẹp trong tâm hồn con người và lòng tin vào khả năng vươn dậy của họ. Chủ nghĩa nhân đạo mới không chỉ yêu thương, đồng cảm với những nỗi khổ của con người mà còn hướng tới, nhằm giải phóng cho con người khỏi mọi xiềng xích áp bức khổ đau và tạo điều kiện cho họ trở thành những con người tự do, những con người tự chủ chiến đấu chống lại mọi thế lực bạo tàn để xây dựng cuộc sống hạnh phúc cho mình. Hiểu giá trị nhân đạo như vậy, ta thấy trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ tư tưởng nhân đạo biểu hiện trước hết ở niềm cảm thông sâu sắc đối với số phận bất hạnh bị mất quyền sống của người lao động miền núi mà tiêu biểu là Mị và A Phủ.
Tác phẩm đã lên án gay gắt thế lực thực dân phong kiến mà điển hình là cha con thống lý Pá Tra, đã lợi dụng cường quyền, thần quyền, hủ tục phong kiến miền núi để biến người lao động thành nô lệ không công và đối xử với họ lạnh lùng, tàn nhẫn như đối xử với con vật. Ngòi bút của Tô Hoài thấm nhuần tinh thần nhân đạo thể hiện ở việc đã khám phá ra những nét phẩm chất tốt đẹp của người lao động và đặt niềm tin, sự trân trọng đối với những khát vọng sống tốt đẹp của những con người bị đoạ đầy đau khổ. Đó cũng là sự kế tiếp truyền thống nhân đạo của dân tộc và phát triển ở mức cao hơn. Tác phẩm cũng chỉ ra con đường giải phóng thực sự của người lao động từ tự phát đến tự giác, tư tăm tối đau thương vươn lên dưới ánh sáng của tự do dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó cũng là sự toả sáng của chủ nghĩa nhân đạo mới khác hẳn với chủ nghĩa nhân đạo thời phong kiến mà một số nhà văn nhà thơ xưa kia trong tác phẩm của mình đề cao quyền sống của con người, khát vọng tự do của con người nhưng chưa tìm ra con đường đi cho họ.
Vợ chồng A Phủ đã cho người đọc thấy được một cách chân thực, sinh động về cuộc sống và con người ở vùng cao Tổ quốc. Tác giả đã lên án những thế lực phong kiến miền núi, thế lực thực dân xâm lược, thông cảm sâu sắc với số phận của người nông dân miền núi đồng thời khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của họ. Và tác phẫm sống mãi với thời gian là nhờ có ngòi bút hiện thực sắc sảo và tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà văn khi viết về đồng bào Tây Bắc giàu tình nghĩa, thuỷ chung với cách mạng.