Cuộc đời vắt ngang qua hai thế kỉ XVIII, XIX với cá tính độc đáo trong cà lối sống và thơ ca, Nguyễn Công trứ xứng đáng tiếp nối cái “Tôi” phá cách thể hiện trong văn học được truyền lại từ Phạm Thái, Hồ Xuân Hương... Chính những nét riêng ấy đã tạo thành vẻ đẹp cho nhiều sáng tác của nhà thơ, trong đó có “Bài ca ngất ngưởng”.
Bài thơ có một tiêu đề rất lạ “Bài ca ngất ngưởng”. “Ngất ngưởng” là từ chỉ thế không vững, lắc lư nghiêng ngả như chực ngã. Tên bài thơ đã phản ánh cuộc đời cũng rất thăng trầm nhiều biến động của tác giả. Một cuộc đời chênh vênh lên xuống thất thường. Nhưng những trầm luân thế thái chỉ càng làm nổi bật nhân cách lớn lao của nhà nho chân chính Nguyễn Công Trứ. Nhà thơ sống “ngất ngưởng”, sống tự chủ, phóng khoáng chẳng màng điều tiếng nhân gian.
Bài thơ được viết sau nãm 1848, tức là sau khi Nguyễn Công Trứ về hưu ở quê nhà - Hà Tĩnh. Cuộc sống tự do tự tại không bị gò bó bởi những lệ luật chốn quan trường khiến tác giả đã vốn “ngông” nay càng “ngông” hơn nữa. Ong càng bộc lộ cao độ cá tính phóng khoáng của mình. Đã bước sang bên kia cái dốc của cuộc đời mình, không ai tránh khởi cái quay đầu nhìn lại những vật đổi sao dời thế sự.
Quay lại phía sau, nhà thơ thấy tự hào vì đã không sống hoài, sống phí. Cuộc đời mình, ông đã làm được những gì mà một kẻ sĩ có thể làm để khẳng định vai trò cá nhân, gánh vác mọi việc trong trời dất: “Vũ trụ nội mạc phi phận sự” - Trong trời đất không việc gì không phải là phận sự của ta. Những học trò chốn cửa Khổng sân Trình luôn tâm niệm vai trò của tầng lớp: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Theo dó, cầu thơ của Nguyễn Công trứ đã thể hiện ý thức sâu sắc về vai trò trách nhiệm của bản thân, của tầng lớp mình đối với thời cuộc.
Tự xếp mình vào hàng những người luôn lo mọi việc trong trời đất, nhà thơ tự xưng tên: “ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng” đã về hưu. Con chim bằng cánh sải chín dặm trời mây đã xếp cánh “vào lồng”, thời lừng lẫy nam bắc đông tây đã lui vào quá khứ nhưng trận gió cuốn, triều dâng đôi cánh ấy tạo nên vẫn thật vang động bốn bề:
“Khi thủ khoa, khi tham tán, khi tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng
Lúc Bình tây cờ đại tướng
Có khi về phủ doãn Thừa Thiên”
Trong lịch sử văn học Việt Nam, cùng với một số ít tác giả độc đáo như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương thì Nguyễn Công Trứ được ghi nhận là cái tôi cá tính, xưng tên riêng của mình trọng tác phẩm - nhà thơ viết “ông Hi Văn”. Nho giáo răn dạy học trò phải biết khẳng định vai trò cá nhân giữa trời đất nhưng đó là cái cá nhân “phi ngã” là cái “ta” ; Nguyễn Công Trứ đã lấy cái “tôi” của mình để chuẩn mực hoá biểu hiện của yêu cầu ấy. Điều đó thể hiện nhà thơ ý thức sâu sắc về cái “tôi” của mình giữa những cái ta chung chung đại khái. Không chỉ vậy ông còn hiểu rõ tài năng của mình. Điệp từ “Khi...khi...” cùng lối nhắt nhịp ngắn, rắn chắc của câu thơ đã khẳng định những tài năng cụ thể, phong phú của nhà thơ. Cuộc đời con người là hành trình đi tìm chính bản thân mình nhưng xã hội phong kiến không cho phép họ nhận thức, khẳng định cái tôi cá nhân. Trong thời đại ấy, thơ Nguyễn Công Trứ là lời ca đẹp ngợi ca khẳng định tính cá nhân của con người, đó là biểu hiện kín đáo của tính nhân bản, nhân vãn trong ý thơ tác giả.
Ý thức được tài năng, con người “ngất ngưởng” ấy còn ý thức được cả đức hạnh phẩm chất tốt đẹp của mình. Song, vẻ thanh cao trong đạo đức ông Hi Văn không phải để (và cũng không thể để, không chịu để) nơi thanh bần ẩn dật. Khác với Nguyên Trãi, Nguyễn Khuyến,... đức hạnh Nguyễn Công Trứ còn đi cùng một cá tính “ngông” khác đời khác người nên ông không ngại ngần phô phang con người thật của mình: “Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng”. Thiên hạ cỡi ngựa riêng ông Hi Văn cưỡi bò! Đã vậy ông còn đeo mo cau sau đuôi bò nhằm “che miệng thế gian . Lối sống khác người, khác đời vô cùng độc đáo ấy nhằm tách mình ra khỏi bụi trân xô bồ, xu nịnh, tham danh hám lợi của thê gian. Cá tính của nhà thơ cũng là thái độ của nhà thơ khinh thị những kẻ a dua, tầm thường, giả dôi. Ta từng ngợi ca khí tiết như mai như tùng của Nguyễn Trãi, Nguyễn Khuyến,... thì ắt hăn không thể quên nét thanh cao nơi Nguyễn Công Trứ (dù chúng cao ngạo “ngất ngưởng” trên lưng bò!).
Không chỉ ngạo nghễ ngồi trên thế gian, ông Hi Vãn cũng biết hạ xuống nhân gian để thể hiện cái đa tình ở một nơi rất mực thanh cao:
“Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Gót tiên theo đủng đỉnh một dôi dì”
Chỉ nhà thơ đi chùa mang cô đầu theo mà thôi. Không phải Nguyễn Công Trứ không biết sự ấy đáng cười: “Bụt cũng bật cười ông ngất ngưởng”, đó là bụt cười, là người đời cười và cũng chính ông tự cười mình đó thôi.
Ai cười thù cũng mặc ai. Con người đã nếm đủ vị đời “lên voi xuống chó” thì còn sợ gì nữa! Ông ung dung trước những được mất của cuộc đời, trước những khen chè của thế gian.
“Được mất dương dương người tái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong”
Bản lĩnh sống ấy đâu phải ai cũng có. Đó là khí tiết của bậc trượng phu đã thấu lẽ đời, hiểu mệnh trời “Kinh luân sẵn có trong tay” (Nguyễn Đình Chiểu) chỉ còn ung dung mà sống. Âm thanh “cắc - tùng” đệm vào câu thơ khiến ta tưởng cuộc đời này cũng như một cuộc chơi mà thôi. Những thú vui ca hát, rượu thơ giúp cuộc chơi thêm phong phú.
Ttưởng như ung dung bảo thủ với lối sống “chẳng giống ai” nhưng Nguyễn Công Trứ vẫn biết gắn lô'i sống riêng với cuộc đời chung. Điều ấy nhà thơ cũng đã tự ý thức được giá trị của nó. Dù sống sao đi nữa, ông Hi Văn vẫn dặn lòng mình “Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung”. Giữ được cá tính nhưng vẫn hoà nhập vào cái chung, đó là bản lĩnh, là vẻ đẹp của sự tự tin hiếm có trên đời.
Nhắc đến Nguyễn Công Trứ là nhắc đến một cá tính có một không hai trong nền văn học Việt Nam. Thơ Nguyễn Công Trứ luôn “ngất ngưởng” một cái tôi ngạo nghễ, song không hề tách rời cuộc sống đời thường. “Bài ca ngất ngưởng” đã chứng minh vẻ đẹp trong lốỉ sống tự tại, thấu tỏ lẽ đời ấy.