tailieunhanh - Tác động của hoạt động khoán bảo vệ rừng đến sinh kế và quản lý tài nguyên đa dạng sinh học ở Vườn quốc gia Cát Tiên

Bài viết Tác động của hoạt động khoán bảo vệ rừng đến sinh kế và quản lý tài nguyên đa dạng sinh học ở Vườn quốc gia Cát Tiên nghiên cứu tác động của hoạt động nhận KBVR đến sinh kế đồng bào tham gia nhận khoán cũng như công tác quản lý tài nguyên ĐDSH ở Cát Tiên. | Quản lý Tài nguyên rừng amp Môi trường TÁC ĐỘNG CỦA HOẠT ĐỘNG KHOÁN BẢO VỆ RỪNG ĐẾN SINH KẾ VÀ QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN ĐA DẠNG SINH HỌC Ở VƯỜN QUỐC GIA CÁT TIÊN Đinh Thanh Sang Trường Đại học Thủ Dầu Một https TÓM TẮT Bằng việc sử dụng phương pháp kế thừa và đánh giá nông thôn có sự tham gia PRA bài báo đã đánh giá ảnh hưởng của hoạt động nhận khoán bảo vệ rừng KBVR đến sinh kế và công tác quản lý tài nguyên đa dạng sinh học ĐDSH tại Vườn Quốc gia VQG Cát Tiên. Kết quả cho thấy hoạt động nhận KBVR đã góp phần gia tăng nguồn lực xã hội và vốn tài chính Z -11 334 p 0 000 nâng cao chất lượng quản lý tài nguyên ĐDSH. Đặc biệt mối quan hệ giữa người dân và kiểm lâm đã được cải thiện rõ chuyển từ khép kín xã giao sang hợp tác và thân thiện Z -10 817 p 0 000 . Tuy vậy vẫn còn tồn tại các khó khăn về vật lực vốn tài chính vốn tự nhiên là đất đai được canh tác kém hiệu quả tài nguyên ĐDSH vẫn còn bị xâm hại. Vì vậy các giải pháp được đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ tài nguyên ĐDSH và phát triển sinh kế bền vững. Đó là tăng cường vật lực nâng cao vốn tài chính thông qua tăng mức hỗ trợ tiền KBVR nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và phát huy hơn nữa vốn xã hội khuyến khích hơn nữa sự tham gia của các hộ đồng bào trong bảo vệ rừng thực hiện nghiêm luật lâm nghiệp quy hoạch các diện tích đồng cỏ chăn nuôi phục vụ cho cư dân. Từ khóa Khoán bảo vệ rừng sinh kế tài nguyên đa dạng sinh học Vườn Quốc gia Cát Tiên xã hội hóa lâm nghiệp. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Sự tham gia của người dân trong công tác vốn xã hội là những nguồn lực chính hình quản lý và bảo vệ rừng cũng như tài nguyên đa thành khung sinh kế DFID 1999 . Sinh kế của dạng sinh học ĐDSH bắt đầu được chú trọng cư dân vùng đệm hay bên trong các VQG và trong thập niên những năm 1970 ở Tây Âu khu bảo tồn thiên nhiên ở nhiều nơi còn phụ Jeanrenaud 2001 . Từ đó xu hướng này trở thuộc lớn vào tài nguyên ĐDSH và đất rừng nên phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới. Ở Việt Vũ Thị Bích Thuận và cs 2014 .

TỪ KHÓA LIÊN QUAN