Vì sao chị em Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam đêm nào cũng cố thức để được nhìn chuyến tàu đi qua? Thể hiện tâm trạng đợi tàu của "hai đứa trẻ" và những ngươi dân phố huyện, Thạch Lam muốn nói gì với người đọc

Hai đứa trẻ là một trong những tác phẩm xuất sắc và tiêu biểu nhất của Thạch Lam. Đó là một truyện ngắn trữ tình. Truyện không có truyện. Nhân vật là nhân vật trữ tình. Tất cả nội dung của truyện đều xoay quanh tâm trạng của chị em một cô gái tên là Liên, nhân vật chủ yếu của tác phẩm. Nhân vật của Thạch Lam nói chung là thế; không có suy nghĩ gì sâu sắc, thường chi thể hiện những cảm giác, những vui buồn nào đấy. Họ thường ngồi yên lặng lắng nghe tiếng nói thầm kín của lòng mình, ít phân tích lí giải đề xuất nhưng khái quát triết lí như thương thấy ở nhân vật Nam Cao

Nhưng đằng sau thế giới nhân vật với những tâm trạng nhu thế, người ta thấy thấp thoáng nhân vật tác giả, người kể chuyện. Nhân vật này thì giàu suy tư. thường phát biểu bằng một giọng điệu dàng nhỏ nhẹ những tư tưởng có ý nghĩa nhân đạo sâu sắc.

Tác phẩm tự nó chia làm ba đoạn:

Doạn một: Tâm trạng Liên trước cảnh chiều muộn nơi phố huyện.

Đoạn hai: Tâm trạng Liên trước cảnh đêm tối nơi phố huyện

Đoạn ba: Tâm trạng chị em Liên khao khát được thấy chuyến tàu di qua phố huyện. Chính ở đoạn ba này, chủ đề của tác phẩm đã được phát biểu một cách sâu sắc và thấm thía. Chủ đề ẩy chính là lời giải đáp câu hỏi: "Tại sao chị em Lién đêm nào cũng cố thức dể được nhìn chuyến tàu qua?".

Nhưng tác phẩm văn học là một chỉnh thể. Vậy muốn giải đáp câu hỏi trên, nhất thiết phải gắn đoạn ba với đoạn một, đoạn hai cùa thiên truyện.

Ba đoạn gắn bó với nhau theo lôgic tâm trạng của nhân vật Liên để cuối cùng tô đậm tư tưởng của truyện ở đoạn kết thúc.

Đoạn một thể hiện tâm trạng buồn của Liên trước quang cảnh tàn lụi của cành thiên nhiên và những cảnh đời nơi phố huyện lúc chiều muộn.

Tâm trạng này tác giả đã ghi rõ trong đoạn văn: "Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị, Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khác của ngày tàn".

Ngày tàn trước hết được báo hiệu bằng tiếng trống thu không như gọi buổi chiều về. Phương tây tuy đỏ rực như lửa cháy nhưng cũng chỉ là ánh Hồng cùa "hòn than sắp tàn". Bóng tối lấn dần lấn dần... Nhin xuống mặt đất, là cành chợ tàn, không có gì vui bằng lúc chợ đông, nhưng củng không có gì buồn hơn cành chợ tàn.

Dẫu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Câu thơ trong bài Tràng giang của Huy Cận thật buồn.

Buồn vỉ người ta về hết cả, tiếng ổn náo nhiệt cũng tắt. Sự sống như tàn lụi. Cái nghèo nàn tự phố bày không che đậy ở những rác rưởi bỏ lại, ở mấy đứa trẻ nhà nghèo lom khom nhặt nhạnh những cái vật vãnh còn có thể dùng được của những người bán hàng để lại...

Những con người quen thuộc với chị em Liên nơi phố huyện cũng vậy, đều là những cuộc đời tàn lụi: cái hàng nước lèo tèo của chị Tí thì ế khách ("Ôi chao, sớm hay muộn mà có ăn thua gì"), cửa hàng của chị em Liên cũng vậy ("Hôm nay ngày phiên mà bán cũng chẳng ãn thua gì"). Hình ảnh cụ Thi điên lảo đảo bước đi càng tô đậm một cảnh ngộ bế tác: "Cụ đi lẫn vào bòng tối, tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía làng".

Đoạn hai thể hiện tâm trạng buồn và chán của Liên trước những cuộc đời tối tăm quần quanh đơn điệu của những cư dân nơi phố huyện.

Tất cả đều diễn ra đúng như những đêm trước, như hàng trăm về trước. Đường phố và các ngõ chứa đầy bóng tối. Các nhà đã cũng im ỉm, trừ một vài cửa hàng còn thức, chỉ hé một khe ánh sáng sau cửa hàng nước chị Tí là gánh hàng bác phở Siêu mà chị em Liên đã biết chắc chắn ngay khi còn ở xa như một chấm lửa nhỏ và vàng lơ lửng đi trong đêm tối, mất đi rổi lại hiện ra". Rồi đến gia đình bác Sẩm với cái thau sắt trắng chổng trơ và thằng con bò ra đất nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát... Đúng là những kiếp người không bao giờ biết đến hạnh phúc. Hiện tại thì cực khổ, tương lai thì mù mịt. Sự tốn tại của họ dường như chi là để chờ đợi vu vơ một cái gì may mắn không bao giờ xảy đến: "Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày”

Được tô đậm nét nhất ở đoạn này là hình ảnh những kiếp sống tối tăm. Điều đáng chú ý ở đây là cái tối tám lại được diễn tà bằng ánh sáng, thứ ánh sáng leo lét của ngọn đèn con nơi chõng hàng nước của chị Tí, đối chọi một cách yếu ớt đến thảm hại trước "vũ trụ thăm thẳm bao la" trùm trên cái phố huyện nghèo; không phải ngẫu nhiên mà thiên truyện ngắn vẻn vẹn chỉ có mấy trang mà hình ảnh ngọn đèn hàng nước chị Tí được nhắc đi nhắc lại bảy lần. Nó trở thành một biểu tượng về những kiếp sống mù tối, lắt lay của những cư dân nghèo khổ tưởng chững bị chốn vùi đến cùng đời mãn kiếp trong bóng tối của cái phố huyện tiêu điểu đã bị cuộc sống bỏ quên này.

Hai đoạn trên chuẩn bị cho đoạn ba buồn chán trước cành đời phố huyện, chị em Liên cuối cùng cùng tìm ra được một lối thoát: trông đợi để được thấy chuyến tàu đêm đi qua phố huyện.

Một lối thoát không phải trong thực tế mà trong tưởng tượng, bởi vì con tàu đi qua đã đem theo nó một thế giới khác hẳn với cái thế giới của cái phố huyện. Một thế giới sáng rực, huyên náo, vui vẻ và sang trọng. Đó là thế giới họ hằng mơ tưởng. Bỗng chốc họ sống với thế giới ấý nghĩa là được thoát ra khỏi cuộc sống tối tăm, vắng lặng xơ xác, nhằm chán và bế tắc của cái phố huyện nghèo. Nhưng cuộc thoát li, dư chi bằng tưởng tượng cũng chi diễn ra trong chốc lát. Đêm tối và sự im lặng mênh mông lại bao bọc lấy tất cả nỗi buồn chán lại trở về cùng với hình ảnh ngọn đèn con của chị Tí leo lét giữa đêm đen "Liên đến bên em nằm xuống. Chị gối đầu lên tay nhắm mắt lại Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tí chi chiếu sáng một vùng đất nhò”.

Qua diễn biến tâm trạng của Liên, tác già muốn nói gì với người đọc? Lời phát biểu của Thạch Lam, như đã nói, bao giờ cũng thầm kín, dịu dàng nhưng cứ thấm thía mãi trong lòng người mà ám ảnh mãi tâm trí người đọc: ấy là tiếng nói đầy xót thương đối với những kiếp người nhỏ bé, cơ cực, sống quẩn quang bế tắc, không hạnh phúc, không tương lai, những con người như bị chôn vùi trong những kiếp sống vô danh, vô nghĩa trong xã hội cũ. Trong xã hội ấy có biết bao ngươi đã phải sống như thế: không bao giờ được biết ánh sáng và hạnh phúc. Đến trong giấc mơ củng không biết ước mơ gì hơn một chuyến tàu đêm vụt đi qua một phố huyện tiêu điều xơ xác của cuộc đời mình.

Đây là một khía cạnh mới của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học Việt Nam từ khoảng 1930 - 1945, khi xuất hiện những thế hệ nhà văn thức tỉnh về ý thức cá nhân, về sự tổn tại có ý nghĩa của mỗi cá nhân tron đời. Họ hết sức nhạy cảm đối với thân phận những con người, không biết sống là vui, những kiếp sống tù mù, dật dờ trong bóng tối.

BÀI CÙNG NHÓM