Nguyễn Trung Thành (bút danh khác là Nguyên Ngọc) là cây bút gắn bó với con người và vùng đất Tây Nguyên kiên cường, bất khuất. Ông đặc biệt thành công khi viết về Tây Nguyên qua tiểu thuyết Đất nước đứng lên và truyện ngắn Rừng xà nu. Rừng xà nu được ra đời trong những năm tháng quyết liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ (năm 1965), tác phẩm đã đưa người đọc trở về với vùng đất Tây Nguyên đau thương mà anh dũng, kiên cường. Với Rừng xà nu dường như ông đã khẳng định được vị trí số một của mình trong mảng đề tài viết về Tây Nguyên. Bởi đây là một tác phẩm kết tinh được những vẻ đẹp truyền thống của Tây Nguyên hùng vĩ. vẻ đẹp đó không chỉ được thể hiện ở hình tượng đặc sắc cây xà nu mà còn ở cả một hệ thống các nhân vật được người đọc trân trọng, yêu mến như cụ Mết, Tnú, Dít và bé Heng.
Điểm giống nhau của các nhân vật được nhà văn thể hiện trong truyện là ở chỗ tất cả họ đều là những dũng sĩ tiêu biểu cho sức mạnh của thế trận chiến tranh nhân dân ở Tây Nguyên thời chống Mĩ. Họ đều là những con người có lòng yêu nước nồng nàn, có chí căm thù giặc sâu sắc, có tinh thần gan dạ, dũng cảm, có khí phách hiên ngang, bất khuất trước kẻ thù và sống gắn bó, trung thành tuyệt đối với cách mạng.
Bên cạnh những phẩm chất chung ấy, mỗi người trong số họ còn mang những vẻ đẹp riêng khác nhau gắn với các thế hệ con người Tây Nguyên. Theo cách miêu tả của nhà văn, cụ Mết, một già làng 60 tuổi là đại diện cho vẻ đẹp của thế hệ thứ nhất - thế hệ cha anh. Ở cụ còn in đậm những dấu ấn siêu phàm của những người già bản trong các truyện thần thoại, các khan ở Tây Nguyên. Đó là một người quắc thước, có tiếng nói ồ ồ vang dội trong lồng ngực, có bàn tay nặng trịch, rắn chắc như một kìm sắt, râu đen bóng dài tới ngực, cặp mắt sáng và xếch, vết sẹo ở má phải láng bóng. Cụ ở trần ngực căng như một cây xà nu lớn. Cụ được xem là linh hồn trong cuộc chiến đấu của dân làng Xô Man, là người nuôi dưỡng ngọn lửa khát vọng tự do, là cầu nối giữa dân làng Xô Man với Đảng. Cụ hiểu rõ và có ý thức sâu sắc về đường lối cách mạng của Đảng. Cụ đã nói với Tnú và dân làng Xô Man: phải dự trữ gạo cho mỗi bếp được ba năm, đánh Mĩ là phải đánh dài. Và từ những trải nghiệm bằng máu và nước mắt cụ đã căn dặn lũ làng một chân lí lịch sử: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo. Rồi chính cụ đã chỉ huy tất cả thanh niên làng Xô Man cầm giáo, mác, dao, rựa bất ngờ xông ra chém ngục mười tên ác ôn sau những tiếng hô sắc lạnh: Chém,, chém hết! Cũng chính cụ đã chống giáo xuống nền nhà rông như một lời thề quyết đánh và vang vang truyền hịch: Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà. mỗi người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây dụ, một cây rựa. nếu không có thì vót chông, năm trăm cây chông. Đốt lửa lên! Ngay sau đó, lập tức chiêng trống nổi lên, lửa cháy khắp rừng, suốt đêm cả rừng Xô Man ào ào rung động. Không chỉ thế, cụ Mết còn được xem như một cuốn biên niên sử của dân Xô Man. Cụ kể chuyện Tnú cho dân làng nghe, tưởng như cụ đang kể để người Strá ai có cái tai, ai có cái bụng thương núi, thương nước, hãy lắng mà nghe, mà nhớ.
Ở cụ, từ hình dáng, diện mạo đến giọng nói, tư tưởng và hành động đều mang đậm màu sắc huyền thoại, phi thường. Và nói như Nguyễn Trung Thành thì cụ là cội nguồn, là Tây Nguyên thời Đất nước đứng lên còn trường tốn đến ngày hôm nay. Cụ như lịch sử bao trùm nhưng không che lấp đi sự mãnh liệt, sôi nổi và tự giác của thế hệ sau.
Đọc Rừng xà nu, ta dễ dàng nhận thấy thế hệ sau là thế hệ thanh niên, thế hệ chủ lực trong đánh Mĩ ở Tây Nguyên mà đại diện là Dít và Tnú. Theo lời giới thiệu của cụ Mết vào một đêm mưa, quanh bếp lửa hồng, tại một ngôi nhà rông có đầy đủ dân làng tụ họp thì Tnú đi giải phóng đánh giặc, nay nó về thăm làng một đêm. Cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta. Còn theo cách miêu tả của nhà văn, lúc còn nhỏ, Tnú là một cậu bé giàu cá tính, có lòng tự trọng rất cao. Ở trong rừng học chữ của anh Quyết, học không bằng Mai, anh nổi nóng đập bể cái bảng nứa rồi bỏ ra bờ suối ngồi suốt một ngày. Anh còn cầm một hòn đá tự đập vào đầu mình, máu chảy ròng ròng. Chữ thì anh quên nhưng khi đi rừng, liên lạc, tiếp tế cho cán bộ, đầu anh lại sáng lạ - sáng một cách thông minh, lanh lợi. Giặc vây giáp, phục kích thì anh trèo lên cây cao nhìn khắp mọi phía rồi xé rừng mà đi, lọt qua tất cả các vòng vây của giặc. Khi vượt sông, vượt suối, anh lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, cưỡi lên thác băng băng như một con cá kình. Bởi anh biết qua chỗ nước êm thằng Mĩ - Diệm hay phục, chỗ nước chảy mạnh chúng nó mới không ngờ. Rồi không may sa vào tay giặc, thằng giặc chĩa họng súng vào tai lạnh ngắt, Tnú nhanh trí nuốt luôn cái thư anh Quyết gửi về huyện vào bụng. Giặc đánh đập, tra tấn dã man bắt Tnú phải khai chỗ ở của du kích, nhưng Tnú vẫn bất khuất, hiên ngang, nó chỉ vào bụng và nói: Ở đây này khiến bọn giặc hết sức kinh ngạc. Chúng giam Tnú trong nhà ngục Kông Tum, Tnú lại vượt ngục trở về. Nghe lời anh Quyết dặn trước lúc hi sinh: Tnú phải học cái chữ cho thật giỏi, để thay tui làm cán bộ. Tnú lại lên núi Ngọc Linh nhưng không phải là để mang đá trắng về làm phấn như ba năm trước mà là đi lấy đá mài về để dân làng mài giáo mác chuẩn bị khởi nghĩa. Càng lớn, Tnú càng mang nhiều vẻ đẹp truyền thống của Tây Nguyên hùng vĩ. Anh có đôi tay chắc khỏe, có bộ ngực cường tráng, có thân hình vạm vỡ đầy sức sống giống như một cây xà nu đã đến độ trưởng thành đang vươn thẳng trên cánh rừng xà nu đại ngàn của núi rừng Tây Nguyên. Tnú trở thành chỉ huy của đội du kích, khiến cho bọn thằng Dục lồng lộn, gầm thét: Con cọp đó mà không giết sớm, nó làm loạn rừng núi này rồi. Chúng nó bắt vợ con anh tra tấn dã man cho đến chết. Tnú nấp sau cây vả, anh nghiến răng đau xót: bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay, đôi mắt anh trở thành hai cục lửa lớn. Nỗi đau xót trong anh nhanh chóng biến thành sức mạnh trả thù. Anh nhảy bổ vào lũ giặc, với hai bàn tay không và mong cứu được vợ con nhưng không thành. Anh bị giặc bắt trói vào cột, tẩm nhựa xà nu đốt mười đầu ngón tay. Tnú như nghe thấy cả lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở trong bụng, mặn chát ở đầu lưỡi, nhưng anh vẫn không kêu la gì. Ngọn lửa xà nu càng tôi luyện thêm khí phách lẫm liệt, càng soi tỏ lòng trung thành vô hạn của anh đối với cách mạng. Đến khi anh thét lên một tiếng dữ dội thì cũng là lúc nhà ưng ào ào chuyển động, rầm rập bước chân, xen lẫn trong tiếng hô của cụ Mết: Chém! Chém hết! Tnú được dân làng Xô Man cứu thoát. Sau đó, mang trong lòng mối thù sâu nặng về cái chết của vợ con và mang trên mình những vết dao chém cùng với mười đầu ngón tay bị giặc đốt, Tnú đi tìm cách mạng, tham gia lực lượng vũ trang chiến đấu để giải phóng quê hương. Trên quãng đường chiến đấu này, với tâm hồn trong sáng, chất phác, giàu lòng yêu thương, Tnú vẫn ôm ấp hình bóng quê hương. Sau ba năm đi giải phóng, được về thăm làng một đêm, anh vẫn yêu tha thiết buôn làng, yêu con nước mát lạnh đầu làng, yêu những hố chông; vẫn nhớ như in những tiếng chày rộn rã, chuyên cần của những cô gái Strá. Và nhớ nhất cái gốc cây bên đường đã gắn với kỉ niệm của anh về Mai, kỉ niệm ấy như cắt vào lòng anh một nhát dao cứa, đau buốt mãi không nguôi. Như thế, Tnú được khắc họa nên như một anh hùng của thời đại nhưng lại mang tầm vóc như một dũng sĩ trong sử thi. Câu chuyện về cuộc đời Tnú là tiêu biểu cho số phận và con đường đấu tranh cách mạng đi từ đau thương, phẫn uất đến sự quật khởi vùng lên đấu tranh để tự giải phóng mình, giải phóng quê hương của các dân tộc ở Tây Nguyên.
Cùng với Tnú là Dít - một cô bí thư chi bộ mới chừng 17-18 tuổi nhưng rất có bản lĩnh. Dít là người dũng cảm kế tiếp con đường của Mai. Ngay từ nhỏ cô đã tỏ ra rất gan dạ: khi Mai cùng đứa con nhỏ bị giặc giết hại, dân làng ai cùng khóc nhưng Dít câm lặng, mắt ráo hoảnh, nuốt hận vào bên trong. Rồi khi dân làng Xô Man bị bao vây, thằng Dục khát máu ra lệnh: Đứa nào ra khỏi làng, bắt được, bắn chết ngay tại chỗ nhưng Dít vẫn bò theo mang nước đem gạo ra rừng cho cụ Mết và lũ thanh niên. Giặc bắt được Dít, chúng nó biến Dít thành một tấm bia sống. Nghĩa là giặc không bắn trúng mà bắn hăm dọa, nó im bặt và nhìn lũ giặc bằng ánh mắt thản nhiên lạ lùng. Dít nén đau thương và căm thù, cô tích cực tham gia cách mạng, trở thành bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã đội, rất chững chạc và nghiêm túc trong công việc. Điều này được thể hiện ở chi tiết Tnú về thăm làng một đêm, với cương vị của mình Dít đã giữ đúng nguyên tắc là hỏi giấy và ngay sau đó thì lại rất tình cảm. Cô nói với Tnú: Sao anh về có một đêm thôi? Bọn em đứa nào cũng nhớ anh. Càng lớn Dít càng giống Mai: cái mũi hơi tròn, lông mày đậm, đôi mắt mở to bình thản, trong suốt, khiến cho Tnú xúc động. Anh cảm thấy trước mắt anh là Mai đấy và Tnú bất chợt nghe một luồng lạnh rân rân ở mặt và ngực. Đối với dân làng và bé Heng, Dít cũng luôn chiếm được tình cảm quý trọng và sự ủng hộ tích cực. Trong suy nghĩ của bé Heng, dường như chị Dít nói gì cũng đúng và phải thực hiện nghiêm chỉnh. Ví như, bé Heng nói với Tnú: Rửa chân đi, nhưng đừng uống nước lạnh, về chị Dít phê bình cho đấy. Có thể nói, nhà văn đã dành những tình cảm trân trọng, yêu mến xen lẫn với sự khâm phục khi nói về Mai và Dít. Họ là những người phụ nữ Tây Nguyên tiêu biểu thể hiện được vai trò của mình trong chiến tranh cách mạng. Và đây cũng là một bước phát triển mới đáng ghi nhận trong quan điểm sáng tác và phong cách nghệ thuật của nhà văn -khi viết về đề tài Tây Nguyên.
Còn bé Heng là đại diện cho vẻ đẹp của thế hệ măng non ở núi rừng Tây Nguyên. Heng là nhân vật phụ nhưng thiếu nó thì bức tranh về vẻ đẹp truyền thống ở Tây Nguyên sẽ không hoàn chỉnh. Heng tuy tuổi đời còn nhỏ nhưng đã có dáng vẻ của một tiểu anh hùng. Em luôn khao khát và rất mong được như những anh chị du kích, như những chiến sĩ giải phóng (em muốn có một bộ quân phục như một người lính thực sự). Em hăng hái và nhiệt tình tham gia cách mạng. Em thông thuộc từng hố chông, từng chiến điểm khi dẫn Tnú về làng. Sự năng nổ, háo hức và sự nhiệt tình của bé Heng đã khiến cho người đọc tin tưởng rằng, đó sẽ là lớp người kế tục xứng đáng những truyền thống anh hùng bất khuất của cha ông, của Tây Nguyên hùng vĩ.
Thế hệ trẻ Tây nguyên được Nguyễn Trung Thành thể hiện trong tác phẩm là những con người gan góc dũng cảm, nhiệt thành yêu nước, sớm giác ngộ lí tưởng cách mạng, không ngại khó khăn gian khổ, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì sự nghiệp giải phóng đất nước. Tuy ở họ còn có nhược điểm là thiếu kinh nghiệm trong đấu tranh với kẻ thù nhưng dù sao qua tác phẩm này, nhà văn vẫn khẳng định họ là những người kế thừa xứng đáng truyền thống của cha ông, là lực lượng nòng cốt nhất trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung của dân tộc.
Đọc Rừng xà nu chúng ta thực sự xúc động trước cảnh vật và con người Tây Nguyên. Chúng ta càng thêm yêu mến, trân trọng hơn những con người Tây nguyên anh hùng, bất khuất, có tâm hồn trong sáng, giàu tình cảm thủy chung, nhiệt tình tham gia cách mạng. Có được tình cảm đó, một phần không nhỏ là do chúng ta tiếp nhận được qua vẻ đẹp của các nhân vật như cụ Mết, Tnú, Dít, bé Heng mà nhà văn đã thể hiện trong tác phẩm. Việc khắc họa thành công vẻ đẹp riêng của các nhân vật này đã tái hiện lại cái không khí hào hùng của một thời kì lịch sử, chứng tỏ Nguyễn Trung Thành là một cây bút già dặn, giàu cảm xúc, giàu tài năng và sáng tạo. Sự thành công đó chính là một yếu tố quan trọng làm nên tầm vóc giá trị và sức sống lâu bền của tác phẩm.