Giới thiệu bài Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu

Phú sông Bạch Đằng là một bài phú nổi tiếng, là tác phẩm tiêu biểu cho thể phú của văn học Việt Nam.

Tác giả của bài phú là Trương Hán Siêu. Chưa rõ năm sinh của ông nhưng theo sử liệu cho biết thì ông sống vào khoảng đầu thế kỉ XIII - thế kỉ XIV, mất năm 1354, tự là Thăng Phủ, quê ở thôn Phúc Am, xã Ninh Thành, nay thuộc thị xã Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Các vua Trần rất kính trọng Trương Hán Siêu, thường gọi ông là “thầy”. Là người tài đức vẹn toàn nên khi qua đời, ông được thờ ở Văn Miếu. Tác phẩm của Trương Hán Siêu có: Bạch Đằng giang phú, Dục Thuý sơn Linh Tế tháp kí (Bài kí ở tháp Linh Tế trên núi Dục Thuý), Khai Nghiêm tự bi kí (Bài kí trên bia chùa Khai Nghiêm) và Cúc hoa bách vịnh... Thơ văn Trương Hán Siêu thể hiện tình cảm yêu nước, ý thức dân tộc, tinh thần trách nhiệm đối với xã tắc của một người đề cao Nho học.

Phú sông Bạch Đằng là loại phú cổ thể: mượn hình thức đối đáp “chủ - khách” để thể hiện nội dung, vận văn và tản văn xen nhau, kết thúc bằng một bài thơ. Loại phú cổ thể (có trước đời Đường) được làm theo lối văn biền ngẫi: hoặc lối văn xuôi có vần, khác với phú Đường luật (có từ đời Đường) có vần, có đối, có luật bằng trắc chặt chẽ.

Phú sông Bạch Đằng là bài phú thể hiện niềm hoài niệm về chiến công của các anh hùng dân tộc, nêu cao vai trò của yếu tố con người với tinh thần ngoan cường, bất khuất trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.

Tác phẩm có lẽ đã được Trương Hán Siêu sáng tác vào đời Trần Hiến Tông, Trần Dụ Tông, khi nhà Trần suy thoái, có nguy cơ sụp đổ. Khi có dịp du ngoạn trên sông Bạch Đằng, một nhánh sông Kinh Thầy đổ ra biển nằm giữa Quảng Ninh và Hải Phòng, nơi lưu dấu chiến tích lịch sử Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán và nhà Trần tiêu diệt quân Nguyên Mông, ông đã cảm khái mà làm thành bài phú này.

Bài phú này có có kết cấu ba phần theo như lối kết cấu thường thấy ở thể phú: Phần mở đầu giới thiệu nhân vật, nêu lí do sáng tác (từ đầu cho đến dấu vết luống còn lưu).

Phần nội dung tập trung vào nội dung đối đáp của nhân vật “khách” và các bô lão hai bên bờ sông (từ Bên sông các bô lão... cho đến Nhớ người xa chừ lệ chan).

Phần kết thúc là lời từ biệt của của nhân vật “khách” bao gồm phần còn lại.

Về nghệ thuật, bài phú có cách miêư tả khái quát, ước lệ kết hợp với tả thực trong đoạn mở đầu. Đó là việc nhắc đến các địa danh cổ như Nguyên Tương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, đầm Vân Mộng... hay cách nói ước lệ như sóng kình, muôn dặm, đuôi trĩ, ba thu... Đan xen với đó là những cảnh thực hai bên bờ sông: cửa Đại Than, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng, bờ lau san sát, bến lách đìu hiu...

Thủ pháp liệt kê trùng điệp cũng được sử dụng hiệu quả trong suốt bài phú. Miêu tả không gian rộng lớn, thời gian liên hoàn, tác giả viết: giương buồm giơng gió..., lướt bể chơi trăng..., sớm gõ thuyền..., chiều lần thăm.... Viết như vậy nhằm làm nổi bật những kì tích của cha ông, gián tiếp bày tỏ lòng tự hào: Đây là chiền địa buổi Trùng hưng nhị thánh bắt ô Mã - Cũng là bãi đất xưa thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao, Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước đối... Các hình ảnh trong bài phú đốì nhau diễn tả không khí bừng bừng chiến trận (Thuyền bè muôn đội tinh kì phấp phới - Hùng hổ sáu quận, giáo gươm sáng chói), hay để miêu tả thế giằng co quyết liệt (Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ - Bầu trời đất chừ sắp dổi.)

Tác giả đã lựa chọn hình ảnh, điển tích diễn tả nổi bật sự thất bại của quân giặc, khẳng định một cách trang trọng tài trí của vua tôi nhà Trần. Ta dễ dàng bắt gặp những hình ảnh đó trong những câu như: Trận Xích Bích quân Tào Tháo tan tác tro bay Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi, Hội nào bằng hội Mạnh Tân: như vương sư họ Lã - Trận nào bằng trận Dụy Thuỷ: như quốc sĩ họ Hàn..

Trong đoạn một và đoạn hai, tác giả cũng đã phối vần rất khéo léo để tạo nên âm hưởng mênh mang diễn tả vẻ đẹp của Cồn sông và sự phóng khoáng trong thú tiêu dao của người khách.

Hai nhân vật chính của bài phú cũng là biểu tượng của những tình cảm yêu mến, tự hào về dòng sông, về kì tích của cha ông thuở trước.

Nhân vật “khách” chính là cái tôi của tác giả. Sông Bạch Đằng và những hoài niệm về chiến công trên dòng sông này đều xuất phát từ sự quan sát của nhân vật này. Qua sự quan sát ấy, nhân vật khách hiện lên với vẻ đẹp phóng khoáng, mạnh mẽ của bậc tráng sĩ: ...chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều - Mà tráng sĩ bốn phương vẫn còn tha thiêt. “Khách” ấy cũng là người thích ngao du, thăm thú và tìm hiểu lịch sử dân tộc: Học Tử Trường chừ thú tiêu dao.

Nhân vật “bô lão” lại là hình ảnh của tập thể, xuất hiện trong hình thức đối đáp ở đoạn hai như sự hô "ứng, qua đó tái hiện lại kì tích xa, bộc lộ niềm ngưỡng vọng, tự hào hùng tráng.

Trong đoạn cuối bài, trong lời thơ, ‘‘“bô lão” và “khách” như hiện thân hô ứng của xưa - nay ca lên niềm tự hào về non sông hùng vĩ, bình luận về chiến thắng sông Bạch Đằng bằng khúc anh hùng ca về tinh thần ngoan cường, bất khuất của con người:

Sông Đằng một dải dài ghê

Sóng Hồng cuồn cuộn tuôn về bể Đông

Những người bất nghĩa tiêu vong

Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh.

Phú sông Bạch Đằng là một áng văn yêu nước, là một tác phẩm có giá trị lớn về cả nội dung và nghệ thuật trong nền văn học nước nhà.

BÀI CÙNG NHÓM