Thơ là thu của lòng người, thu là thơ của đất trời, câu nói ngỡ như một trò chơi chữ này của người xưa hoá ra đã thể hiện dược mối tương thông kì lạ giữa mùa thu và thơ ca. Có phải vì thế mà trong bốn mùa, thơ ca thiên vị với mùa thu hơn cà và mùa thu cũng ban tặng cho thi nhân nhiều thi tứ hơn? Mùa thu gắn bó với thi ca đến nỗi chỉ cần xem xét thơ viết về mùa thu của các thời đại củng phấn nào thấy được những thời đại thơ ca... Kể tên những áng thơ thu đẹp nhất trong thơ tiếng Việt, người ta phải nhắc đến nhừng Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Bà huyện Thanh Quan, Nguyễn Khuyến, Tàn Đà, Lưu Trọng Lư, Tế Hanh, Nguyễn Đinh Thi, Tố Hữu... và không thể không nhắc đến Xuân Diệu. Thoạt nhìn, dễ nghỉ Xuân Diệu chỉ là thi sĩ của mùa xuân. Đọc bài Xuân không mùa, thậm chí, chúng ta có thể nói : Xuân không mùa - ấy là Xuán Diệu. Thực thì, Xuân Diệu còn là thi sĩ của mùa thu, không chỉ vì ông có nhiều bài thơ thu đặc sắc. Điểu cốt yếu là, với thi sĩ, xuân hay thu cũng đều là mùa tình.
Nói thế, không có nghĩa là Xuân Diệu không dành một quan niệm riêng cho cái mùa của những bông cúc vàng ẩn dật này. Trong cảm quan của thi sĩ, thiên nhiên cũng như một giai nhân đầy nhan sắc. Thời kì rực rỡ hoàng kim là thuộc về mùa xuân Qua hạ vào thu là một bước kì tàn phai. Một sự tàn phai, không thể tránh khỏi. Mùa thu là mùa phôi phai. Nhưng, ngay trong độ phai tàn, giai nhân ấy vẫn cứ kiêu sa, đài các, lộng lẫy. Đây mùa thu tới có lẽ là thi phẩm nảy sinh trực tiếp từ cảm quan ấy.
Cũng không riêng chuyện cảm quan, Đâv mua thu tới còn thuộc về mối cảm hứng rất Xuân Diệu - một cảm hứng nghiêng về thời gian như cái tên của nó: Đây mùa thu tới đã chọn một thời điểm riêng để đến mùa thu: thời điểm giao mùa.
Trong chùm thơ thu nổi tiếng của minh, Nguyễn Khuyến viết về một mùa thu đã hoàn toàn định hình, đã ngự trị từ lâu ở làng cảnh Việt nam, thi nhân chi đi tìm kiếm những nét gì đặc trưng nhất đế vẽ nên bức tranh mùa thu. Nghệ thuật của Tam nguyên Yên Đổ có phần nghiêng về không gian, nghiêng về cái tĩnh. Còn thi sĩ Xuân Diệu thi chờ cái lúc mùa thu từ phương xa về, đáp xuống xứ sở này, rồi dần dần từng bước xâm chiếm toàn bộ thiên nhiên, cây cỏ. Mùa thu di đến đâu, cành sắc biến đổi đến đấy. Ngòi bút Xuân Diệu bám từng bước đi của thời gian, nắm bắt cái dáng vẻ, cái trạng thái sự vật đang ngả dần sang thu, đất trời đang vào thu. Nghệ thuật Xuân Diệu. rõ ràng nghiêng về thời gian, nghiêng về cái động.
Trong cái thế giới riêng của bài thơ, cảnh sắc đầu tiên mà mùa thu xâm chiếm là rặng liệu - nó lập tức biến thành liễu thu. Hành trình xâm lấn của mùa thu từ đó, dường như cứ lan dần, loang dần ra những khu vườn, những rặng núi, những dòng sông, những tầng trời... và cuối cùng, nó xâm chiếm lòng người. Khi đã tràn ngập những tâm hồn thiếu nữ, ấy là mùa thu đã đi trọn một con đường của nó. Và, mùa thu tới, cảnh sắc cũng theo đó phôi pha. Sắc lá phai nhạt đi, hoa rơi rụng đi, cành nhánh gầy guộc đi, trăng ngơ ngẩn đi, dáng núi nhạt nhoà hơn, sông vắng vẻ hơn, bầu trời u uất hơn, cảnh đời thưa thớt hơn, khí trời lạnh lẽo hơn, lòng người buồn bã hơn... khi nhưng thiếu nữ cũng "buổn không nói, Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì", ấy là lúc mùa thu dường như đã làm xong phần việc của nó: chuyển toàn bộ xứ sở thành thu. Như thế, hành trình của mùa thu cũng chính là trình tự câu tứ của Đây mùa thu tới.
Dấu ấn của Xuân Diệu đã in đậm lên tổng thể tứ thơ. Ta còn thấy dấu ấn ấy in cả lên từng chi tiết nhỏ nhất của bài thơ nữa. Đúng là mỗi thi sĩ thường tìm cho mình một tín hiệu riêng để nhận biết mùa thu Người xưa thấy thu về trong một chiếc lá ngô đồng rụng. Nguyễn Du thấy thu về trong sắc đỏ lá phong. Nguyễn Khuyến nhận ra thu trong dáng trúc. Lưu Trọng Lư nghe thấy tiếng thu trong tiếng lá xào xạc. Nguyễn Đinh Thi nhận ra thu trong làn hương cốm mới. Trần Đăng Khoa biết thu về khi hoa cau rụng vào những thoáng heo may... Còn Xuân Diệu, ấy là dáng liễu Khi rặng liễu bắt đầu mang dáng đứng chịu tang, thi sĩ biết rằng mùa thu đã hiện diện ở xứ sở này:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới - mùa thu tới,
Với áo mơ phai dệt lả vàng.
Chúng ta biết thơ mới bắt đầu mới trong cảm xúc. Cảm xúc mới này nở, bùng nổ, nó phải kiếm tìm thi pháp mới. Ở Xuân Diệu - nhà thơ "mới nhất trong các nhà thơ mới", cảm xúc và thi pháp đã giúp nhà thơ làm mới những thi liệu cũ. Liễu là hỉnh ảnh đã quá quen thuộc trong thơ cổ điển. Trong Truyện Kiều thật nhiều những dáng liễu đẹp :
Lơ thơ tơ liễu buông mành
Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
Nhưng xem ra, trong câu thơ Nguyễn Du, liễu có phần nghiêng về vẻ đẹp khách quan, liễu hiện lên bằng vẻ đẹp của bản thân liễu. Nhà thơ mới Xuân Diệu không chịu làm thế. ông ta đã "áp đặt" vào liễu một vẻ đẹp chủ quan, liễu mang trong nó một vẻ đẹp người. Dáng liễu là dáng người, từng dòng lá liễu rủ xuống mang trong nó những dòng tóc đang buông xuống và trăm nghìn giọt lệ đang tuôn xuống. Tâm trạng liễu là tâm trạng người. Cảm nhận liễu, người ta cứ thấy phảng phất trong liễu cái bóng dáng những giai nhân đài các, kiêu sa, mà âu sấu, buồn bã. Trước Xuân Diệu, xem ra chưa gặp một dáng liễu nào giống thế. Trước tín hiệu báo mùa ấy, thi sĩ đã kêu lên! Câu thơ thứ ba đúng là một tiếng reo. Nhưng không phải reo vui (cũng không thể reo vui!) như có người tưởng. Đó lả tiếng reo ngỡ ngàng, vỡ lẽ vì chợt nhận ra mùa thu đã về. Trong cảm nhận của Xuân Diệu, mùa thu vốn vô hình đã trở nên hữu hình. Dường như mùa thu cũng về trong bóng hình, trong phong thái của một giai nhân hữu hình. Ta không nhìn thấy rõ khuôn mặt nàng, nhưng ta nhận thấy nàng trong cái vũ điệu bay đến và trong sắc ảo hư áo nhưng như dệt bằng lá vàng và nắng vàng cùa nắng:
Đây mùa thu tới, mùa thu tới.
Với lá mơ phai dệt lá vàng
Nó gợi ta nhớ đến hình ảnh trăng trong Lời kỹ nữ, cũng đáng điệu ấy phong thái ấy:
... Tràng từ viễn xứ
Đi khoan thai lên ngự đỉnh trời tròn.
Vậy là cảm xúc thầm mi của Xuân Diệu đã gắn liền với một lối liên tưởng mới: vẻ đẹp thiên nhiên được quy chiếu về vẻ đẹp của những giai nhân!
Chỉ bốn câu đẩu đã là một bức tranh thu trọn vẹn và mới mẻ. Không chi có thế, lắng nghe kĩ còn thấy trong bức tranh kia đang ngân lén một điệu nhạc nào nữa. Tôi muốn nói đến những sáng tạo của Xuân Diệu về âm điệu trong khổ thơ đầu. Là một bậc thầy về ngôn ngữ, Xuân Diệu có nhiều dụng công trong tạo vần và nhịp. Người đọc dễ dàng nhận thấy ba chuỗi vần dược phối hiệp nhuần nhuyễn với nhau trong khổ thơ. Vần 'iu" (cận thể là "yêu") với các từ : liễu, đìu, hiu, chịu ; vần "an" (cận thể là "ang") với các từ: tang, ngàn, hàng. vàng... ; và văn "uôn" (cận thể là "uông") rồi các từ buồn, buông, xuống... Những khuôn âm liên tiếp, vừa níu kéo, vừa đan xen thành từng chuỗi đã giúp Xuân Diệu tạo hình được những dòng lá liễu đang rủ xuống và cả những thân liễu như đang muốn trùng xuống, trĩu xuống tựa hồ những dạng liều buồn không mang nổi tâm trạng của chính mình. Cả nhịp điệu ở câu thứ ba củũng phụ hoạ vào lối tạo hình ấy. Câu thất ngôn thường đi nhịp 2/2/3. ở đây Xuân Diệu ngắt thành 4/3 :
Đây mùa thu tới / mùa thu tới,
cơ hồ nhịp điệu đã mô phỏng dược nhịp đi tới theo một vũ điệu nào đó của mùa thu Dùng âm nhạc của ngôn ngữ để tạo hình như thể. Xuân Diệu đã tỏ rõ thi pháp tượng trưng ngầm vào ngòi bút của mình nhuần nhuyễn như thế nào.
Tuy nhiên, nói đến Xuân Diệu là phải nói đến một hồn thơ nhạy cảm với những biến thái tình vì mơ hồ trong tâm hồn con người và tạo vật Mùa thu chạm vào rặng liễu và làm liễu biến đổi. Mùa thu đi vào vườn, cảnh vật trong vườn cũng từng bước biến suy Trong cái vẻ biến đổi quen thuộc, thi nhân đã nhận ra nhừng điều thật khó thấy:
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh;
Tôi không muốn nói đến vẻ tân kì, vẻ Tây trong việc dùng chữ "hơn một", hay chữ "rụng cành" Đáng nói hơn ấy là chữ "rủa". Có người đã hiểu đây là chữ "rủa". Không phải! Xuân Diệu đâu có diễn tà sự phân huỷ của những xác lá. Điều thi nhân muốn diễn tả tinh vi và thanh nhã hơn nhiều: sự phôi pha trên màu lá. Cũng nói về sự chuyển mùa qua sự chuyển màu trên thào mộc cỏ cây; Nguyễn Du từng có câu:
Người lên ngựa kè chia bào,
Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san,
Cùng thời với Xuân Diệu, Nguyễn Bính viết :
Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.
Sau này, Tố Hữu cũng sẽ có những câu tình tế:
Ve kêu rừng phách đổ vàng,
Nhớ cô em gái hái măng một minh.
Gần nhau đến thế mà mỗi chữ vẫn mang một sắc thái riêng, một vẻ thân tình riêng. "Nhuốm" mới bắt đầu, đang diễn ra, còn "nhuộm" hình như đã kết thúc, hoàn tất. Một chữ xem chững động hơn, nói được nỗi buổn từ cuộc chia li Kiều - Thúc vương phủ lên rừng phong khiến màu cây biến sắc. Chữ "nhuộm" có lẽ tĩnh hơn (trong vần cảnh), nói cái thời gian của kẻ tương tư dài đằng đẵng đến nỗi đủ làm cây héo úa, làm người hẻo hon. Chữ "đổ" lại nhấn mạnh sắc thái mau lẹ. Những ngày cuối của mùa xuân, phách hãy còn xanh. Thế mà khi những tiếng ve đầu tiên của mùa hè cất lên, rừng phách đã nhất loạt trổ hoa vàng. Ngỡ có ai đem đổ cả một bình màu lớn khiến rừng phách kia lênh lắng sắc vàng! Xuân Diệu không lặp lại sự biến màu trên toàn cục. Ông nắm bắt sự đổi màu trên mỗi chiếc lá. Thậm chí sự phôi phai trong từng hạt diệp lục. Chữ "rùa” là thế ta không chỉ thấy mùa thu đến trên những vòm lá, những dòng sông, những chân trời, những tầng trời. Mà còn thấy thu đến trong từng hat diệp lúc đang phai màu. Nếu màu xanh thuộc về mùa hạ, thì màu đỏ là mùa thu trên từng chiếc lá, người ta thấy thu về và đang tranh chấp với mùa hạ. Màu đỏ lấn tới đâu, màu xanh phôi phai tới đó. Mùa thu lan đến dẫu, mùa hạ lùi bước đến đó. “Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh”, câu thu khác nào như đã thu nhỏ cả cuộc đổi mùa lớn lao vào góc vườn, vào một chiếc lá đang phai!
Cũng ở trong vườn, một hình ảnh ngỡ quá quen thuộc này, cũng có những cảm nhận thật mới lạ:
Những luống run rẩy rung rinh lá...
Đôi nhánh khô gầy xương mong manh.
Có người đã hiểu sự cách tân của Xuân Diệu ở đây là : gọi "luống gió" bắng "luống run rẩy". Nếu thi sĩ có định làm thế thỉ cũng chẳng mới được là bao. Cái Xuân Diệu định nói đây chính là luống run rẩy. Vâng, là những luống run rẩy, rùng mình của những thân cành mảnh mai gầy guộc trước những làn gió thu. Nó gợi ta nhớ đến cái "Lung linh bóng sáng bỗng rùng mình" hay cái trạng thái "Tất cà tôi run rẩy tựa dây đàn" rất đặc trưng của thơ Xuân Diệu. Như một người quay phim tình tế, thi sĩ đã ghé sát ống kính của thơ mình để đặc tả thật cận cảnh, khiến cho những cành nhánh nhỏ nhất, gầy guộc, mảnh mai nhất cũng như đang run rẩy lên tựa dây đàn trên dòng thơ ngay cả khi gió thu đã lướt qua rổi!
Cứ kĩ lưỡng, tình vi như thế, Xuân Diệu thả hồn mình cảm nhận những nét thu đang tượng hình, đang hiện hình trong từng sự vật thiên nhiên mỗi ngày một mở ra, lan xa:
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ...
Non xa khởi sự nhạt sương mờ...
Đã nghe rét mướt luồn trong gió...
Đã vắng người sang những chuyển đò...
Mùa thu đến đã được càm nhận bằng thị giác, bằng thính giác. Ngay cá những "luống run rầy" kia cũng thuộc về thị giác. Đến đây ta mới thật sự bị cái hơi lạnh của mùa thu xâm chiếm, cái cảm giác thu đã thành ấn tượng sắc nét trên da thịt ta - "Đã nghe rét mướt luổn trong gió!" mùa thu cứ lan ra xa nhát, rộng nhất, cao nhát vỡ. dòng sông, ngọn núi, với mây trời, cánh chim, và cả nàng trâng nưa Nhưng chi đến khi xâm chiếm vào lòng các thiếu nữ thì mùa thu mới hôm được nơi sâu nhất của cõi này:
ít nhiều thiếu nữ buồn không nói,
Tựa cửa nhìn xa nghỉ ngợi gì.
Mùa thu, mùa phôi phai - đã gieo buồn vào hồn người, đã đánh thức dậy nỗi cô đơn! Tựa cửa nhìn xa với khao khát lứa đôi. Đây mùa phôi pha đang đánh thức dậy một dự cảm mơ hồ về cái đô phai tàn xa xôi mà như thể nhỡn tiên đó? Làm sao ta biết được! Chỉ biết ràng đằng sau cái dáng "buồn không nói", "tựa cửa nhìn xa" ngỡ bất động, ngờ hoàn toàn tỉnh kia lại chứa chất những xôn xao thấm thía nhất cùa cõi thu này.