Ý nghĩa nghệ thuật của hình tượng "mảnh trăng” trong truyện ngắn "Mảnh trăng cuối rừng" của Nguyễn Minh Châu

Như cái tên của nó, truyện ngắn "Mảnh trăng cuối rừng” có một hình tượng hết sức quan trọng mà thiếu nó thì truyện ngắn này cũng mất đi sức sống. Đó là hình tượng mảnh trăng. Chúng ta chỉ cần giả định nếu câu chuyện này vẫn diễn ra ban ngày thì sự thể sẽ ra sao? Hoặc giả câu chuyện diễn ra vào ban đêm nhưng chúng ta tước bỏ đi tất cả những câu văn dính dáng đến hình ảnh trăng thì sự thể sẽ ra sao? Có thế thấy ngay rằng tính cách nhân vật chủ đề câu chuyện thì không hề thay đổi, nhưng tất cả sẽ hiện lên rõ ràng đến mức trần trụi, nhạt nhẽo, tầm thường và toàn bộ cái gọi là chất thơ của câu chuyện sẽ hoàn toàn bị tiêu tan. Chỉ cần hình dung như thế chúng ta đã đủ thấy vị trí của hình tượng này đối với tác phẩm

Vấn đề đặt ra với người viết là cần phải mô tả hình tượng này ra sao cho thật sống động, chân thực, lại phải chứa đựng những ần ý nghệ thuật. Vì thế, người nghê sĩ cần phải sử dụng hai bút pháp song song. Đó là: vừa tả thực vừa tượng trưng hoá. Có nghĩa là biến một hình tượng sinh động thành một biểu tượng nghệ thuật. Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã đáp ứng một cách hoàn hảo những đòi hỏi mang tính chất thách thức ấy.
Đoc câu chuyện này chúng ta thấy bút pháp tả thực của Nguyễn Minh Châu tỏ ra rất cụ thể, giàu chất truyền cảm. Trước hết, trăng là hình ảnh gợi ra thời gian. Cuộc gặp gỡ của đôi trai gái này diễn ra vào đầu tháng, bấy giờ là trăng thượng tuần. Mảnh trăng khuyết gợi ra được quãng thời gian này một cách sống động. Mặt khác trăng là hình tượng gợi ra không gian. Đôi trai gái này hẹn nhau ở rừng già Trường Sơn. Đêm ấy trăng đã giúp cho Nguyễn Minh Châu mô tả thành một khung cảnh rất trữ tĩnh Trăng gợi ra vòm trời cao lồng lộng và trong vắt, trăng phù lên khung cảnh thứ ánh sáng huyền ảo, thơ mộng làm cho tất. cả trở nên lung linh Đúng là khung cảnh dành cho tình yêu. Và chúng ta cung thấy Nguyễn Minh Châu bám sát hình tượng này để tả nó như một nguồn sáng dọc theo câu chuyện tổ điểm cho nhân vật. Nhân vật Nguyệt đẹp nhất là khi có ánh trăng soi tỏ chiếu vào mái tóc và đọng đầy trên khuôn mặt.
Nhưng nếu chỉ dừng lại ở những nét tả thực không thôi thì hình ảnh trăng có thể sinh động nhưng chưa có chiều sâu nghệ thuật. Chính bút pháp tượng trưng hoá mới làm cho hình tượng mảnh trăng trở nên đầy đặn. Có nghĩa là trăng không phải chỉ là trăng mà nó còn biểu tượng cho tuổi trẻ, vẻ đẹp của nhân vật Nguyệt, tình yêu của Nguyệt và Lãm. Mà tựu trung lại trăng là biểu tượng cho sức sống bất diệt của dân tộc Việt Nam trong chiến tranh.

Làm thế nào mà Nguyễn Minh Châu có thể gửi gắm vào hình tượng trăng những ý nghĩa lớn lao đến vậy? Đầu tiên, chúng ta có thể thấy ngay rằng trăng được mô tả song song với Nguyệt thành một cặp hình tượng gắn bó với nhau, soi chiếu lẫn nhau, tuy hai mà một. Điều này đã bộc lộ ngay trong cách dặt tên nhân vật. Nguyệt chính là trăng. Hai hình tượng này cũng được mô tả một cách rất tinh tế. Ban đầu trăng hiện ra còn mờ nhạt, chưa rõ nét, ý thơ nó chỉ là một chi tiết rất phụ nằm bên lề cốt truyện. Càng về sau, chúng ta mới thấy trăng càng tỏ dần, sắc nét hơn và thâm nhập sâu hơn vào nội dung câu chuyện. Thậm chí, chúng ta có thể thấy trăng không chi là nguồn sáng mà trở thành nhân vật thứ ba của thiên truyện. Cũng như vậy, ban đầu Nguyệt ẩn mình trong bóng tối của thùng xe. Sau đó, Nguyệt cũng cứ hiện dần, hiện dần từng nét núp dưới ánh sáng và khi Nguyệt lên buồng lái ngồi thì trăng và Nguyệt cũng hoà nhập vào nhau. Và cuối cùng, cả hai hình ảnh trăng và Nguyệt đã đồng nhất trong tâm tưởng của Lãm. Khi trăng đã lặn, Nguyệt đã chia tay với Lãm nhưng Lãm vẫn cứ thấy hình ảnh Nguyệt với gương mặt lộng lẫy ảnh trăng hiện ra phía trước xe. Điều đó cho thấy trăng và Nguyệt không hề mất đi trong tinh yêu của Lãm. Vầng trăng và gương mặt Nguyệt đã hoà vào nhau và sống mãi, lung linh mãi tươi tắn mãi trong tâm khảm của Lãm.

Tác phẩm kết thúc, Nguyễn Minh Châu thấy cần phải phát huy cao hơn nữa bút pháp tượng trưng, để tạo ra một hỉnh ảnh chốt gây ấn tượng đẹp và sâu trong tâm trí người đọc: ấy là hình ảnh sợi chỉ xanh óng ánh của đức tin và tình yêu lý tưởng nối liền tâm hồn đôi tinfh nhân- chiến sĩ. Dường như nó - cái sợi chỉ huyền thoại ấy - cũng được xe kết bằng cái ánh trăng xanh đậm ấy. Tác giả đã tạo ra hình ảnh sợi chi xanh này để đặt nó trong quan hệ tương phản với hình ảnh cái cầu Đá Xanh đồ sộ. Nhưng chiếc cầu đã bị bom Mỹ đánh sập. Còn sợi chỉ xanh mỏng manh kia thì chẳng đạn bom nào phá được. Một kết luận như vậy đã nâng ý nghĩa tượng trưng của hình ảnh mánh trăng lên một bước mới để mãi mãi ám ảnh người đọc.

BÀI CÙNG NHÓM