Anh (chị) hãy bình giảng khổ thơ dưới đây:
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa.
(Trích Tiếng hát con tàu -Chế Lan Viên, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục, 2016, trang 144)
BÀI LÀM THAM KHẢO
Đất mẹ - Tổ quốc thân yêu của đời con làm con tự hào biết bao. Được trở về với nhân dân, với cuộc đời rộng lớn, đó là sứ mệnh thiêng liêng của nền văn học chân chính. Sứ mệnh ấy đã trở thành niềm khát vọng, niềm hạnh phúc đối với các nhà thơ lãng mạn đã từng chìm sâu trong cái “tôi” nhỏ bé bế tắc. Để diễn tả niềm khát vọng và hạnh phúc ấy. Chế Lan Viên đã sáng tạo nên một bài thơ đặc sắc, độc đáo: Tiếng hát con tàu, một bài thơ tiêu biểu của tập Anh sáng và phù sa viết năm 1960. Trên hành trình của một hồn thơ đi từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui, từ chân trời của một người đến với chân trời của tat cả, hơn ai hết, Chế Lan Viên hiểu được vai trò lớn lao của Đảng và nhân dân, những người mà nhà thơ cho rằng đã thay đổi đời tôi, thay đổi thơ tôi. Niềm hạnh phúc rưng rưng của một nhà thơ đã nhận ra giá trị đích thực của cuộc đời mình khi trở về với nhân dân đã được nhà thơ diễn đạt một cách chân thành và xúc động qua những câu thơ:
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa.
Sự thực thì chưa hề có đường tàu lên Tây Bắc. Con tàu ở đây chỉ là biểu tượng cho khát vọng lên đường, đi xa, hướng vào đời sống rộng lớn của đất nước, của nhân dân, đi tới những ước mơ lớn, ngọn nguồn cảm hướng lớn của nghệ thuật:
- Khi lòng ta đã hỏa những con tàu.
- Anh có nghe gió ngàn đang rủ gọi
Ngoài cửa ô tàu đói những vành trăng.
- Đất nước mênh mông đời anh nhỏ hẹp
Tàu gọi anh đi sao chửa ra đi?
Chăng có thơ đâu giữa lòng đóng khép
Tám hồn anh chờ gặp anh trên kia.
Với tư cách là một nhà thơ, từ thực tế đời sống với những yêu cầu, đòi hỏi mới đối với người nghệ sĩ, nhà thơ đã thể hiện được khát vọng trở về với đất nước và nhân dân - cội nguồn của mọi cảm hứng sáng tạo. Đó là niềm hạnh phúc lớn lao của nhà thơ khi được trở về với nhân dân:
Con gặp lai nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim ẻn gặp mùa.
Tư tường gặp lại nhân dân là một tư tưởng đẹp. Tư tưởng ấy được cụ thể hóa, hình tượng hóa bằng năm hình ảnh ẩn dụ so sánh vừa mới lạ, vừa giàu chất thơ. Trong hoài niệm của nhà thơ về Tây Bắc, nhân dân không phải là một khái niệm trừu tượng mà được hiện diện qua những cuộc đời, những số phận cụ thể. Đó là người anh du kích với Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách/ Đêm cuối cùng anh gửi lại cho con, là thằng em liên lạc Mười năm tròn! Chưa mất một phong thư”, là bà me “lửa hồng soi tóc bạc. Năm con đau, me thức một mùa dài... Họ là những người có cuộc đời nghèo khó nhưng đã hi sinh trọn đời cho cách mạng, được nhà thơ nhắc đến bàng tất cả lòng biết ơn chân thành nhất. Câu thơ Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ là một so sánh độc đáo. Mùa đông tàn tạ, đàn nai đi kiếm ăn ở rừng xa. Nay mùa xuân đến, đàn nai trở về suối cũ mảnh đất đã bao đời gắn bó thân thiết yêu thương. Nai về suối cũ là sự thể hiện tình nghĩa thủy chung ở đời như con gặp lại nhân dân, được sống trong lòng nhân dân. Một chữ “con” dùng rất tinh tế, đã thể hiện một tình cảm chân thành, ấm áp. Đọc lên, ai cũng cảm thấy có mình trong đó.
Câu thơ Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa mở ra trong lòng ta bao liên tưởng đẹp. Ba tháng mùa đông, cỏ cây tàn tạ xơ xác úa vàng. Giêng hai đêm hơi ấm mùa xuân cho vạn vật; cỏ trở nên xanh mướt, tốt tươi. Mùa xuân là mùa của sắc cỏ thật đúng là: Phương thảo liên thiên bích (Cớ thi), Cỏ non xanh tận chân trời (Truyện Kiều). Mùa xuân cũng là mùa của chim én: Ngày xuân con én đưa thoi (Cảnh ngày xuân - Nguyễn Du). Én gặp mùa xuân để kết đàn, sinh sôi nảy nở... Chữ “đón” (cỏ đón giêng hai), chữ “gặp” (chim én gặp mùa) diễn tả niềm hạnh phúc được hồi sinh, phát triển, trờ nên tươi đẹp. Lấy thế giới cỏ cây, chim muông để nói về niềm vui sướng hạnh phúc khi con gặp lại nhân dân là một cách nói thấm thìa, đậm đà. Cánh én và sắc cỏ mùa xuân trong thơ Chế Lan Viên lúc nào cũng đẹp và đáng yêu:
Tháng giêng, hai xanh mượt cỏ đồi
Tháng giêng, hai vút trời bay cánh én.
(Ỷ nghĩa mùa xuân)
Còn gì vui sướng hơn, hạnh phúc hơn khi Đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa, khi Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa? Dòng sữa ngọt ngào cũng là tình thương của mẹ nuôi dưỡng trẻ thơ. Cánh tay của mẹ, của bà nhẹ đưa khi “chiếc nôi ngừng”..., đã nâng giấc ngủ bé thơ. Giấc ngủ êm đềm trong lời ru tiếng hát, trong tình yêu thương. Mẹ và bà đã đến với em thơ trong sự khát khao, mong đợi. Đoạn thơ gây ấn tượng cho người đọc trước hết bởi lối xưng hô nhằm tạo ra quan hệ ruột thịt: Con gặp lại nhân nhân. Cách xưng hô giản dị mà chân thành, ấm áp đã cụ thể hóa một lần nữa mối quan hệ giữa nhà thơ và nhân dân. Đây là một nhận thức mới mẻ thể hiện hành trình của một quá trình nhận thức; từ cái tôi chật hẹp của chính mình, người nghệ sĩ đã hòa nhập với cuộc sống rộng lớn của nhân dân. Đây cũng là nhận thức của Xuân Diệu khi ý thức về chỗ đứng, về mối quan hệ giữa người nghệ sĩ với nhân dân:
Tôi cùng xương thịt với nhân dân tôi
Cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu
Tôi sống với muôn người chiến đấu
Của triệu người yêu dấu gian lao.
(Những đêm hành quân)
Vì vậy, lối xưng hô ân tình ấy sở dĩ gây được xúc động trong lòng người đọc cũng chính là bởi nhà thơ đã nói được tấm lòng của cả một thế hệ mà có lần Chế Lan Viên đã trách cứ với chính mình vì “lỡ nhịp'" với cuộc sống của nhân dân:
Cỏ thể nào quên cả một thời thơ ấy Tổ quốc trong lòng mà có cũng như không Nhân dân ờ quanh ta mà ta chăng thấy Thơ xuôi tay như nước chảy xuôi dòng Người thay đổi đời tôi, Người thay đổi thơ tôi.
Và đó cũng là niềm vui hạnh phúc được sống trong tình yêu thương như khi Con gặp lại nhãn dân. Ý tường con gặp lại nhân dân được thể hiện một cách phong phú, đa dạng. Gặp lại nhân dân là được sống trong hạnh phúc, trong tình nghĩa thủy chung. Là được tiếp thêm sức sống, sức mạnh mà trở nên tươi tốt, sinh sôi, phát triển. Là được sống trong tình thương san sẻ, vỗ về, được thỏa nỗi chờ mong.
Đoạn thơ trên thể hiện rõ bút pháp nghệ thuật của Chế Lan Viên: giàu tính triết lí và vẻ đẹp trí tuệ. Triết lí mà không khô khan, vì nhà thơ đã sáng tạo nên nhiều hình ảnh đẹp, mới lạ và ngôn ngữ sắc sảo. Ý tưởng đẹp, hồn thơ đẹp cứ quyện lấy lòng ta.
Tư tưởng yêu nước và nhân dân được thể hiện cảm động đó đây trong thơ ca dân tộc từ mây trăm năm trước. Nhưng sau Cách mạng tháng Tám, đặc biệt qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chổng Mĩ, tư tưởng vĩ đại ấy đã được một số nhà thơ như Tố Hữu, Xuân Diệu, Chế Lan Viên... nói lên một cách chân thành, thấm thìa và sâu sắc hơn:
Con chim biết nhớ đàn nhớ tổ
Ta nhớ người đau khổ nuôi ta
Ơn người như mẹ như cha
Lòng dân yêu Đảng như là yêu con.
(Tố Hữu)
Trong niềm xúc động chân thành ấy, nhà thơ đã diễn đạt ý nghĩa của cuộc trở về với nhân dân bằng lối so sánh đầy bất ngờ, sáng tạo. Đây là một lối so sánh, liên tưởng trùng điệp. Chỉ có bốn câu thơ mà xuất hiện đến năm lần biện pháp so sánh. Cảm giác như niềm hạnh phúc được trở về với nhân dân: bỗng nở xòe như những cánh hoa rực rỡ và ấm áp sắc màu. Lối so sánh phức này là một đặc trưng thể hiện phong cách nghệ thuật thơ Chế Lan Viên. Trong bốn câu thơ đề từ, nhà thơ đã so sánh lòng ta, tâm hồn ta với hai hình ảnh: con tàu và Tây Bắc.
Việc xây dựng hình tượng thơ qua lối so sánh phức có ý nghĩa rất lớn và thế hiện niềm xúc động rưng rưng của nhà thơ, đồng thời tạo được sự liên tưởng nhiều chiều với những quan hệ ngang dọc trong trí tưởng tượng của người đọc.
Những biện pháp so sánh ở đây lại được xây dựng từ những hình ảnh rất bình dị, quen thuộc, đặc biệt với người dân miền núi: nai, suối, cũ, cỏ, chim én, mùa xuân, chiếc nôi. Điều này cũng ghi nhận nỗ lực của nhà thơ trên con đường từ bỏ những hình ảnh xa lạ, ma quái ở những tập thơ trước cách mạng để trở về với thế giới bình dị, mang trong đó hơi thở cuộc sống của nhân dân. Nếu trước đây, người đọc luôn bắt gặp những hình ảnh cầu kì, thậm chí điên loạn: bóng ma hời, những sông vắng lê mình trong bóng tối... thì đến bài thơ, đoạn thơ này là những hình ảnh đầy ắp vẻ đẹp của hiện thực đời sống.
Cái hay trong đoạn thơ còn là cách sắp xếp những hình ảnh so sánh của nhà thơ. Đó là lối so sánh tăng dần theo cấp độ. Ba vế so sánh đều hướng về tự nhiên, về ngoại vật. Nhưng đến hai vế so sánh còn lại thì hướng về con người và nhu cầu tồn tại của con người: trẻ thơ đói lòng - gặp sữa; nôi ngừng - cánh tay đưa. Chính cách sắp xếp ấy có ý nghĩa rất lớn trong việc thể hiện niềm biết ơn chân thành và sâu sắc của nhà thơ khi được về với nhân dân. Không những thế, lối so sánh trong khổ thơ còn mang đậm tính triết lí: Mỗi sự vật chỉ có thể có ý nghĩa khi đặt trong mối quan hệ máu thịt với các sự vật khác. Nai và suối cũ - đó là hai yếu tố không thể tách rời, trong đó, suối cũ đã trở thành môi trường sống của loài nai. Tháng giêng, tháng hai là thời điểm bắt đầu của một năm. Thời điểm ấy thích hợp nhất cho sự phát triển của cỏ cây, hoa lá. Mùa xuân và những cánh chim én; trè thơ và nhu cầu gặp sữa... đều là những hình ảnh luôn được đặt trong những mối quan hệ chi phối lẫn nhau. Mượn những hình ảnh trong đời sống tự nhiên và xã hội, mượn những quy luật ấy để nhà thơ nói đến một mối quan hệ lớn hơn: nghệ thuật chỉ có ý nghĩa khi phản ánh đời sống. Hiện thực đời sống là điểm xuất phát đồng thời cũng là cái đích cuối cùng mà mỗi tác phẩm văn học phải hướng tới. Nếu đánh rơi mất đời sống, thơ ca sẽ chết khô trên trang giấy. Nhưng để phản ánh được hiện thực đòi sống, người nghệ sĩ phải gắn bó cuộc đời mình với nhân dân, phải cùng nhịp đập với hàng triệu trái tim của nhân dân, có lễ, không nhà thơ nào lại diễn đạt chân lí của quá trình sáng tạo ấy hay và sâu sắc như Chế Lan Viên.
Đoạn thơ trên đây của Chế Lan Viên là một tiếng lòng được nâng lên thành một triết lí đẹp: Hạnh phúc khi được gặp lại nhân dân. Bốn câu thơ, câu nào cũng có hình ảnh đẹp, mới lạ biểu lộ một cá tính sáng tạo sắc sảo, tài hoa. Chế Lan Viên đã hướng người đọc đến một quy luật có tính phổ quát: trở về với nhân dân là con đường tất yếu. Nó phù hợp với quy luật của tự nhiên cũng như phù hợp với đạo lí tình cảm con người. Bởi vì chỉ có con đường ấy mới mở ra được những chân trời lớn cho người nghệ sĩ. Đi trên con đường ấy, Chế Lan Viên đã thực sự thành công, trở thành tiếng thơ hào hùng, tiếng kèn xung trận trong những năm chống Mĩ sau này.