Từ xưa đến nay, cha ông ta luôn coi văn học là một thứ vũ khí chiến đấu mãnh mẽ và sắc bén. Anh (chị) hãy làm sáng tỏ quan niệm đó

Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của những cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nưởc vĩ đại. Trong muôn loại vũ khí chống chọi với quân thù, có một thứ khí giới “thanh cao mà đắc lực” (Nguyễn Minh Châu), “có sức mạnh hơn mười vạn quân” (Nguyễn Trãi) - đó chính là văn chương nghệ thuật.

Văn học là loại hình nghệ thuật thuộc thượng tầng kiến trúc. Những giá trị nó tạo ra thuộc phạm trù tinh thần, chúng hoàn toàn vô hình nhưng sức tác động của văn học tới tư tưởng con người rất mạnh mẽ.

Tại sao văn học lại được coi là thứ vũ khí chiến đấu? Điều này trước hết xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử đất nước. Từ người Việt còn nằm trong bọc trứng của mẹ Âu Cơ, cha Lạc Long Quân đã phải chiến đấu với lũ thuỷ quái, yêu tinh. Rồi quân xâm lược phương Bắc, bầy giặc cỏ phương Nam, đến lũ cướp nước phương Tây thay nhau quấy nhiễu, giày xéo, thông trị đất nước tá. Sống giữa cảnh chiến tranh loạn lạc, “mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt, mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đàng”, “ruộng rẫy là chiến trường, cuốc cày là vũ khí, nhà nông là chiến sĩ”, lẽ nào ngòi bút của người nghệ sĩ không trở thành vũ khí chiến đấu?

ở Việt Nam, quan điểm vãn nghệ Nho giáo đã thấm sâu vào trí thức, kẻ sĩ. Quan niệm có phần tích cực là kích thích kẻ sĩ đem văn chương phục vụ đất nước. Trong Bảo kính cảnh giới bài số 56, Nguyễn Trãi viết:

“Đao bút phải dùng tài đã vẹn

Chỉ thư nấy chép việc càng chuyên

Vệ Nam mãi mãi ra tay thước

Điện Bắc đà đà yên phận tiên”.

Thế kỉ XIX, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu cũng viết:

“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm

Đám mấy thằng gian bút chảng tà”

Văn chương một mặt chuyên chở đạo lí thánh hiền, mặt khác phục vụ chính trị, đạo đức, giáo hoá.

Đến Sóng Hồng - nhà cách mạng cũng làm những vần thơ:

“Lấy cận bút làm đòn xoay chế độ

Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền”

Các nhà văn cách mạng đều đề cao chức năng tuyên truyền, giáo dục của văn học, coi văn học là thứ vũ khí sắc bén, lợi hại. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dõng dạc khẳng định: “Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Vậy nên Người đã chủ động tăng cường chất thép trong những vần thơ của mình:

“Nay ở trong thơ nên có thép

Nhà thơ cũng phải kiết xung phong”

Bao nhiêu năm qua, văn học đã không ngừng chiến đấu với bọn ngoại xâm, nội phản. Mỗi vần thơ, mỗi câu chuyện là một mũi tên xuyên trực diện vào lũ cướp nước. Trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi không ngại ngần lên án tội ác của bọn giặc Minh:

“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ

Dối trời lừa dân, đủ muôn nghìn kế

Gây binh kết ọán trải hai mươi năm

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời

nặng thuế khoá sạch không đầm núi"

Những vần thơ Đông A, những vần thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương, những vần thơ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh... bừng bừng khí huyết căm thù giặc. Thời chống Pháp, chống Mĩ cỏ cà một thế hệ những nhà văn, nhà "thơ vừa cầm súng vừa cầm bút chiến đấu. Hàng loạt những bài thơ chủa Phạm Tiến Duật, Anh Thơ, Xuân Quỳnh, hàng loạt tiểu thuyết, truyện ngắn của Nguyễn Thi, Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Minh Châu... vừa là bài ca ca ngợi lòng yêu nước của nhân dân, vừa là bản cáo trạng đanh thép tuyên cáo tội ác tày trời của giặc. Bằng cách đối lập hai hình tượng nhân vật thằng Xãm và chị Sứ, nhà văn Anh Đức đã lột trần tội ác của tên Việt gian và ngợi ca lòng yêu nước của ngứời con gái xứ Hòn (Hòn Đất). Cũng theo cách đó, Nguyền Đình Thi đã viết những vần thơ hạ bệ quân giặc một Cách thảm hại:

“Xiềng xích chúng bay không khóa được

Trời đầy chim và đất đầy hoa

Súng đạn chúng bay không đánh được

Lòng dân ta yêu nước thương nhà”

{Đất nước)

Bất kì thời đại nào, mỗi vần thơ, mỗi câu văn chiến đấu chống giặc ngoại xâm cũng là những bài ca đanh thép nhất, kiên cường nhất. Những bải ca đó thẳng thắn lên án sự phi nghĩa của quân giặc, chĩa mũi nhọn vào tội ác của chúng. Chiến thắng mà các nhà thơ, nhà văn đạt được có khi là sự kinh hãi quân thù. Bài ca Nam quốc sơn hà tương truyền của Lí Thường Kiệt khi được đọc bên bờ sông Như Nguyệt đã khiến quân giặc khiếp sợ. Nhung bài dụ tướng giặc làm quân tướng giặc hoang mang, nao núng vì Nguyễn Trãi đã chỉ ra cho chúng hàng loạt các điểm yếu. Mỗi bài ca thể hiện khí phách, tinh thần quyết chiến của dân tộc cổ vũ thêm lòng yêu nước cho nhân dân.

Đất nưởc sạch bóng quân thù, điều đó không có nghĩa là văn học không còn nhiệm vụ chiến đấu nữa. Đôi tượng chiến đấu của văn học không phải là quân cướp nước, bán nước mà là những cái ác, cái.xấu đang đày đoạ con người. Các truyện ngắn Bức tranh, Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu), Một người Hà Nội (Nguyễn Khải) có tính chiến đấu không? Tất nhiên là có. Chừng nào còn những điều phi nghĩa giày vò con người, chừng nào còn có những điều bất an đe dọa cuộc sống của con người, chừng đó người nghệ sĩ còn cầm bút để chiến đấu.

Bản chất của“văn học là nhân học”. Khi nhà văn dùng ngòi bút của mình tham gia chống lại cái ác, cái xấu trong xã hội, cũng là lúc họ đang thực thi nhiệm vụ là khoa học của lòng người, của con người. Mặt trận không tiếng súng này không có máu, nhưng mồ hôi và nước mắt sẽ không lúc nào vơi cạn.

BÀI CÙNG NHÓM