Phân tích quá trình diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong cảnh đêm hội mùa xuân ở Hồng Ngài (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài)

A. DÀN BÀI

1. Mở bài

Vợ chồng A Phủ là một trong những truyện ngắn hay nhất trong cuộc đời cẩm bút của nhà văn Tô Hoài. Trong thiên truyện có nhiều nhân vật như Mị, A Phủ, A Sử, A Châu, thống lí Pá Tra,... nhưng nhân vật Mị nổi bật hơn cả. Tâm trạng và hành động của nhân vật Mị được bộc lộ rõ qua cảnh đêm hội mùa xuân ở Hồng Ngài.

2. Thân bài

a. Cảnh ngộ của Mị khi ở Hồng Ngài

- Mị là một cô gái H’mông xinh đẹp, hồn nhiên, yêu đời, hát hay, có tiếng sáo làm say lòng người, thổi lá cũng hay như thổi sáo.

- Đến tuổi xuân thì, Mị bị bắt làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra nhưng thực chất là làm nô lệ. Mị trở thành một người phụ nữ cam chịu, “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, có khi vô cảm.

- Mị sống nhẫn nhục, thầm lặng, vô cảm, không có chút hi vọng vào sự đổi thay của tương lai.

b. Tâm trạng và hành động của Mị trước cảnh mùa xuân và ngày hội

- Cảnh mùa xuân và ngày hội đã khơi dậy, đánh thức nơi sâu thẳm đáy lòng Mị một sự ham sống mãnh liệt. Mị “lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát”. Rồi Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước.

- Nhưng khi tâm trạng bồi hồi, sung sướng vô ngần ấy vừa xuất hiện thì nỗi đắng cay, chua xót, u sầu cũng chạy đến vây lấy Mị. Mị nghĩ đến cái chết. Nhưng rồi, “tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường đã giục giã, thôi thúc Mị, khiến Mị dường như quên hết cảnh ngộ bi thảm của hiện tại. Bản năng của Mị thôi thúc Mị đi chơi. Bản năng đã làm cho Mị không biết sợ sệt là gì.

c. Tâm trạng và hành dộng của Mị khi bị trói

- Trong lúc lòng yêu đời đang trỗi dậy mãnh liệt cũng là lúc Mị bị vùi dập một cách tàn nhẫn, không thương tiếc.

- Trong bóng tối, dù bị trói như một thứ đồ vật nhưng Mị vẫn sống với bân nặng.

- Trong suốt đêm bị trói đứng, Mị rơi vào tâm trạng lúc mê, lúc tỉnh. Đến sáng, “khi bàng hoàng tỉnh thì cô “sợ quá”, “cựa quậy”, xem mình còn sống hay chết”. Tâm trạng lo sợ ấy đã thể hiện ý thức về sự sống của Mị.

3. Kết bài

Trong khung cảnh tăm tối, ngột ngạt, tù túng, tàn bạo, bản năng sông đầy chất thơ của nhân vật Mị chợt bừng sáng lên. Sức sống tiềm tàng, trẻ trung không dập tắt được của Mị là một bài ca hùng hồn về sự sống, đồng thời cũng là một bản cáo trạng đanh thép về tội ác của bọn phong kiến, thần quyền vùng núi cao Tây Bắc trước năm 1954.

B. BÀI LÀM

Vợ chồng A Phủ là một trong những truyện ngắn hay nhất trong cuộc đời cầm bút của nhà văn Tô Hoài. Trong thiên truyện có nhiều nhân vật như Mị, A Phủ, A Sử, A Châu, thống lí Pá Tra,... nhưng nhân vật Mị nổi bật hơn cả. Tâm trạng và hành động của nhân vật Mị được bộc lộ rõ nhất qua cảnh đêm hội mùa xuân ở Hồng Ngài.

Mị là một cô gái người H’mông xinh đẹp, hồn nhiên, yêu đời, hát hay, có tiếng sáo làm say lòng người, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Ngày xưa, bố Mị lấy mẹ không có đủ tiền cưới, phải đến vay nhà thống lí, bố của thống lí Pá Tra bây giờ. Mỗi năm đem nộp lãi cho chủ nợ một nương ngô. Đến tận khi hai vợ chồng về già rồi mà cũng chưa trả hết nợ. Vì vậy, đến tuổi xuân thì, Mị bị bắt làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra nhưng thực chất là nô lệ. Suốt ngày, ở nhà thống lí, Mị phải quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi, đi cõng nước dưới khe suối lên, hái thuốc phiện, giặt đay, se đay, bung ngô, tước đay thành sợi,.. Kiếp sống cơ cực hơn cả ngựa trâu đã biến một cô gái hồn nhiên, yêu đời năm nào thành một người phụ nữ cam chịu, “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, có khi vô cảm. Mặt khác, Mị cũng có những phản ứng ngấm ngầm. Một hôm, Mị trốn về nhà, quỳ lạy bố, úp mặt xuống đất khóc nức nở nhưng bên trong áo giấu sẵn một nắm lá ngón để tự tử.

Mị không chỉ là nạn nhân của sự đầu độc, áp chế về tinh thần. Bọn thống lí Pá Tra đã lợi dụng thần quyền - tục mê tín dị đoan - để làm cho người nô lệ này yên phận với kiếp sống đau khổ. Mị tin rằng: “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi...”. Cho nên, Mị sống nhẫn nhục, thầm lặng, vô cảm, không có chút hi vọng vào sự đổi thay của tương lai.

Thế rồi mùa xuân lại về. Khung cảnh thiên nhiên mùa xuân ở Hồng Ngài rất thơ mộng, tình tứ và bừng sức sống: “Gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng”, “trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ. Hoa thuốc phiện vừa nở trắng lại đổi ra màu đỏ hau, đỏ thâm, rồi sang màu tím man mát”.

Cùng với vẻ đẹp thiên nhiên là không khí náo nức, nhộn nhịp của ngày hội. “Trai gái, trẻ con ra sân chơi ấy tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy”; “chiêng đánh ầm ĩ”; “văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”. Chính cái không khí ấy đã khơi dậy, đánh thức nơi bề sâu hun hút của tâm hồn Mị một cuộc sống mãnh liệt, trẻ trung. Mị “lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Rồi Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiêng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo di theo Mị”.

Nhưng khi tâm trạng bồi hồi, sung sướng vô ngần ấy vừa xuất hiện thì nỗi đắng cay, chua xót, u sầu cũng chạy đến vây lấy Mị. Mị ý thức được cảnh ngộ éo le của cuộc đời mình: “A Sử với Mị, không có lòng với nhau nhưng mà vẫn phải ở với nhau!”. Mị liền nghĩ đến cái chết: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay”. Nhưng rồi, “tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường: Anh ném pao, em không bắt; Em không yêu, quả pao rơi rồi...” đã giục giã, thôi thúc Mị, khiến Mị dường như quên hết cảnh ngộ bi thảm của hiện tại. Mị hành động như một người tự do, như “bao nhiêu người có chồng” khác. “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”. Mị muốn đi chơi một cách bản năng. Cái ý nghĩ “muốn đi chơi” vọt ra khi có tiếng sáo rập rờn ở trong đầu. Cái hành động “quấn lại tóc”, “với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”, “rút thêm cái áo” chuẩn bị đi chơi là sự chiến thắng bất ngờ của bản năng. Bản năng đã làm cho Mị không biết sợ sệt là gì.

Trong lúc lòng yêu đời đang trỗi dậy mãnh liệt cũng là lúc Mị bị vùi dập một cách tàn nhẫn, không thương tiếc. Mặc dù đang “thay áo mới, khoác thêm hai vòng bạc vào cổ rồi bịt cái khăn trắng lên đầu” để đi chơi nhung A Sử biết được ý định của Mị, hắn chỉ hỏi một câu: “Mày muốn đi chơi à?” rồi “bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cây cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa”. Sau hành động vô nhân đạo, phũ phàng ấy, hắn bỏ đi.

Trong bóng tối, dù bị trói như một thứ đồ vật nhưng Mị vẫn sống với bản năng. Mị không biết mình đang bị trói. Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. Mị vẫn nghe lời ca tiếng hát ngọt ngào, tình tứ vang lên: “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào.. ”. Mãi đến lúc Mị “vùng bước đi”, cô mới giật mình trở về với thực tại, mới thấm hiểu rõ cái cảnh ngộ bi thảm của mình: “Tay chân đau không cựa được” và cô mới thổn thức nỗi lòng, biết mình không bằng con ngựa! Nhưng khi nghe tiếng chó sủa xa xa, đêm đã về khuya thì Mị mới khóc, lòng Mị lại bồi hồi. Trong suốt đêm bị trói đứng như thế, Mị rơi vào tâm trạng lúc mê, lúc tỉnh. Lúc mê lòng lại “nồng nàn tha thiết nhớ”. Lúc tỉnh thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức. Đến sáng, “khi bàng hoàng tỉnh thì cô “sợ quá”, “cựa quậy”, xem mình còn sống hay chết”. Tâm trạng lo sợ ấy đã thể hiện ý thức về sự sống của Mị. Cô cảm thấy đau dứt từng mảnh thịt bởi vì cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại. Chính sự trỗi dậy của sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị có những hành động táo bạo, mạnh mẽ sau này - cô cắt dây cởi trói để cứu A Phủ thoát khỏi cảnh ngộ bi thảm đồng thời cũng là tự cứu mình.

Tóm lại, trong khung cảnh tăm tối, ngột ngạt, tù túng, tàn bạo, chúng ta thấy có bản năng sống đầy chất thơ của nhân vật Mị bùng sáng lên. Sức sống tiềm tàng, trẻ trung không dập tắt được của Mị là một bài ca hùng hồn về sự sống đồng thời cũng là một bản cáo trạng đanh thép vể tội ác của bọn phong kiến, thần quyền vùng núi cao Tây Bắc trước năm 1954.

BÀI CÙNG NHÓM