Ấn tượng của anh (chị) về bài thơ Đây thôn vĩ giạ của Hàn Mặc Tử

Trên bầu trời rực rỡ của phong trào Thơ mới, Hàn Mặc Tử tựa hồ như một ngôi sao chói lọi. Thơ ông vừa thể hiện tình vêu thiết tha đối với cuộc sống trần tục, vừa hướng lên Chúa Trời, tới những miền thánh khi thần tiên.

Con người đầy tài hoa và nhiệt huyết này, năm 25 tuổi (1937), bị mắc bênh phong. Căn bệnh kinh khủng này đã đầy đọa ông cả về thể xác, lẫn tình thần suốt trong ba năm trước khi ông nhắm mắt. Chi vẻn vẹn hơn 10 năm sáng tác, thi sĩ đã để lại cho đời nhiều thi phẩm có giá trị, trong đó Đây thôn vĩ giạ được xem là một kiệt tác. Đây thôn vĩ giạ được in trong tập Thơ điên, xuất bản sau khi tác giả qua đời.

Đã có không ít. giai thoại về Hàn Mặc Tử. Đã có không ít sự giải thích về xuất xứ và cách hiểu bài Đây thôn vĩ giạ. Song, nếu lấy văn bản làm căn cứ chính, thỉ phải thừa nhận bài thơ tuy có chứa đựng một thông điệp tình yêu - một tình yêu trong trắng, thơ mộng, nhưng đơn phương và vô vọng. Đồng thời, nhờ có tình yêu đó, nhà thơ đã để lại cho đời một bức tranh xứ Huế thật là mộng mơ, huyển ảo, tuy có đượm buồn...

Đây thôn vĩ giạ chỉ vẻn vẹn có 3 khổ, tổng cộng 12 câu thất ngôn Mờ đầu bài thơ có lẽ là lời trách thầm, và cũng là lời nhắn nhủ nhẹ nhàng người yêu của nhân vật trữ tình, trong một tâm trạng vời vợi nhớ mong:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lả trúc che ngang mặt chữ điền.

Nếu như mỗi mối tình đều gắn với một không gian và thời gian cụ thể, thì mối tình của nhân vật trừ tình trong bài thơ này gắn với vườn tược và con người Vĩ Giạ, với những kỷ niệm thật khó quên

Có dịp, xin mời bạn hãy về thăm thôn Vĩ vào một buổi sớm mai Vĩ Giạ nằm ngay bên bờ sông Hương êm đềm thơ mộng, chỉ cách trung tâm cố đô Huế không đầy một giờ tản bộ. Từ xưa, thôm Vĩ đã nổi tiếng bởi cây cối tươi xanh, và những biệt thự nhỏ nhắn duyên dáng, thấp thoáng dưới màu xanh của cây lá. Vĩ Giạ vừa có cái nét chung của mọi làng quê Việt Nam, vừa có những nét riêng biệt của xứ Huế mộng và thơ. thôn Vĩ Giạ cũng nổi tiếng như sông Hương, núi Ngự, chùa Thiên Mụ... của xứ này Bởi vậy, ta không lấy làm ngạc nhiên khi thấy nhiều nghệ sĩ tên tuổi như Nguyễn Bính, Bích Khê, Nguyễn Tuân... đều có những sáng tác, mà cảm hứng được nảy sinh từ thôn Vĩ Giạ.

Sớm mai, nắng mới long lanh trên những tàu cau còn ướt sương đêm. Khách từ xa tới sẽ thấy hàng cau trước nhất, vì nó thường cao hơn hẳn những cây cối xum xuê ở dưới. Đất đai Vĩ Giạ phì nhiêu, được con người cần cù chăm bón; quả thật, cây cối ở đây xanh tốt mơn mởn và sạch sẽ như được lau chùi, mài dũa thành như những cành vàng lá ngọc... Câu thơ:

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Thật sự là một sáng tạo độc đáo. "Mặt chữ điền" gợi cho người đoc hình dung một gương mặt vuông vắn phúc hậu. Nhưng, đặt hình tượng trong văn cảnh của nó: "Lá trúc che ngang mặt chữ điền" thì ấn tượng nổi bật lại là sự hài hòa, gắn bó mật thiết giữa con người với vườn tược quê hương. Không nên hiểu câu thơ theo bút pháp tà thực. Đây là một hỉnh ảnh cách điệu hóa đầy tài hoa của Hàn Mặc Tử.

Tình càm thiết tha, trân trọng của thi sĩ thể hiện ngay trong chính cái nhìn cảnh vật. Nó làm ta nhớ đến câu thơ của Bích Khê, bạn thân thiết của tác giả:

Vĩ Giạ thôn, Vĩ Giạ thôn,

Biếc che cần trúc không buồn mà say

(Huế đa tình)

Tiếp nối mạch cảm xúc ở khổ đầu, dường như khổ thứ hai nhà thơ có phần dành để đặc tà cảnh sông nước mây trời xứ Huế, và cũng bộc lộ một niềm hoài vọng bâng khuâng:

Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyên ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

Nhịp sống dịu dàng, khoan thai của xứ Huế được diễn tà rất đạt: gió và mây nhè nhẹ trôi đi; sông Hương nước chảy lặng lờ. Hoa ngô (hoa bắp) chỉ khẽ khàng đung đưa theo chiểu gió. Khác với khổ một, đến khổ thứ hai này, không gian được miêu tả có phần như trong mộng ảo, tràn ngập ánh trăng. Nhà thơ không những chi tả, không những chỉ nhìn bằng mắt và điều quan trọng hơn là còn "nhìn" bằng thế giới tâm linh của mình; do đó, không có biên giới giữa thực và mộng. Và dường như, càng về cuối, thế giới tâm linh, thế giới mộng ào càng lấn át thế giới hiện thực. Vì là mộng ảo, nên có nỗi băn khoản rất mộng mơ: "Thuyền ai đậu bến sông trăng đó - Có chở trăng về kịp tối nay". Thuyên chở trăng đã có nhiều thi nhân nhắc đến, nhưng "sông trăng" thi có lẽ Hàn Mặc Tử là người sáng tạo đầu tiên. Dường như, trong những câu thơ trên, có sự mong chờ, có niềm hi vọng lẫn nỗi buồn man mác của nhà thơ. Ở đây, rõ ràng, không chỉ có sự đặc sắc của một bút pháp phác họa đúng cái hồn của một xứ Huế, mà điều quan trọng nữa là, từ những nét phác họa ấy, nó gợi lên ở người đọc một tình yêu thật dịu dàng, kín đáo, mà sâu xa rộng mở đến không cùng.

Ấn tượng cùa người đọc về những điều nói ở trên sẽ được nhà thơ tô đậm thêm qua đoạn kết:

Mơ khách dường xa khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khỏi mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

Đúng là xứ Huế vốn mưa nhiều, lắm sương khói. (Có lần, Nguyễn Bỉnh đã phải hét lên: "Giời mưa ở Huế sao buồn thế! - Cứ kéo dài ra đến mấy ngày" - Giời mưa ở Huể). Do đó, phải chăng, khổ thơ trên có nét tả thực, cũng giống như "hàng cau", "lá trúc", "hoa bắp"... ở những khổ trước? Sương khói trắng, và áo em cũng trắng; bởi vậy, nếu nhà thơ chỉ nhìn thấy cái bóng mờ ảo của con người thôi (mờ nhân ảnh), thì cũng là điều dễ hiểu. Tuy vậy, như đã nêu, Hàn Mặc Tử vốn là nhà thơ lãng mạn đích thực, cái chính là thi sĩ đã nói bằng tâm tưởng, gieo vào lòng người đọc một thoáng bâng khuâng: những thiếu nữ Huế tươi đẹp quá, kín đáo và huyền ảo quá! Nào ai có biết tình yêu của họ bền chặt, hay cũng chỉ mờ ảo như khói sương xứ Huế? Câu hỏi của nhà thơ đối với cô gái Huế hay của mọi người, mọi thời đã từng gắn bó với Huế? Ở đây, dường như tác giả cảm thấy mình chơi vơi, hụt hẫng, trước một mối tình đơn phương lung linh, huyền ảo Nếu ta biết rằng, Hàn Mặc Tử tuy khao khát yêu đương, nhưng căn bệnh hiểm nghèo đã làm cho ông không có được một tình yêu trọn vẹn, nhà thơ từng phải sống cô độc, lúc thì trong một con thuyền nhỏ lênh đênh chẳng có bến bờ, lúc thỉ khắc khoải bên dãy núi ven thành phố, và cuối cùng phải nằm vô vọng ở nhà thương Tuy Hòa chờ cái chết..., thì ta càng thông cảm cho một thoáng hờn dỗi, trách móc tưởng như vô cớ của cây bút đa tài, mà bất hạnh này.

Cùng với Đây mùa thu tới cùa Xuân Diệu, Tràng giang của Huy Cận...; Đây thôn vĩ giạ xứng đáng là một kiệt tác. Trước một kiệt tác, thường có nhiều cách cảm thụ khác nhau. Nhưng hiểu theo cách nào thỉ cũng không thể không thấy bên cạnh mối tình vô vọng, nhà thơ đã để lại một bức tranh rất có hồn về sông nước Huế đẹp và thơ.

BÀI CÙNG NHÓM