Hãy cho biết cảm nghĩ của em về những gì khiến em xúc động hơn cả trong mấy bài ca dao về thân phận người lao động nghèo khổ đã học

1. Trong 8 bài ca dao đã học về thân phận người lao động nghèo khổ trong xã hội cũ, em thấy xúc động hơn với hai bài (2,7) nói về thân làm mướn, ở đợ, với các hình ảnh cuối trong bài số 4 nói về nỗi niềm không người chia sẻ và với bài số 6 bộc lộ khát vọng đổi đời của họ.

2. Con đi làm mướn kiếm lưng cơm người, chàng trai (hoặc cô gái) này chắc hẳn là nhà nghèo, nên mới phải đem thân đi làm thuê để kiếm sống. Chỉ “lưng cơm” thôi, nhưng là “cơm người”, cơm của chủ thuê. Chàng không kể rõ, nhưng em tưởng tượng ra cảnh chủ nhà ngồi trông chừng từng lượt xới, từng cái gắp. Rồi mắng chó chửi mèo, chì chiết chê bai. Nhiều khi cơm và vào miệng mà nuốt chẳng thể trôi. Đâu được như “cơm mẹ”, ăn giữa gia đình, ăn bớt một bát mẹ đã lo, có miếng nào ngon mẹ gắp cho trước. Có đi làm mướn, ăn bát cơm người nuốt cùng nỗi nhục, mới thấm thía cái giá của tình cảm mẹ cha, chỉ có bù trì săn sóc, thoải mái “vừa ngồi vừa ăn”, không phải nặng đầu vì những câu xúc phạm của bà chủ. Cũng cảnh ăn ở cay cực của kẻ làm thuê ấy, nhưng ở bài số 7, mức độ gay gắt hơn, tình trạng miêu tả cụ thể chi tiết hơn. Ăn thì hôm nào cũng chỉ “cơm thừa”, “canh cặn”. Ngủ thì “nằm sau xó lều”. Mong mỏi giải thoát “ra khỏi nhà giàu” đã thành bức xúc: anh réo thúc thời gian, nôn nóng đợi đêm chóng qua, ngày chóng hết, để xong kì hạn ỏ đợ làm thuê. Thật tội! Tục ngữ có câu “thước ngọc chẳng tày tấc bóng”, ca dao cũng nhắc Đời người được một gang tay, chứng tỏ dân gian rất quý thời giờ, tiếc từng tấc nắng qua đi. Vậy mà ở đây thời gian chỉ còn có nghĩa là những ngày, những đêm bị đối xử theo kiểu đọa đày. Cái kiếp nô lệ mòn mỏi ấy kéo dài bao nhiêu, cực nhục bấy nhiêu. Thời gian ở đây không hề cho ta hưởng niềm vui sống, mà chỉ giáng xuống tội nợ. Em hiểu vì sao trước kia người cố nông sợ tiếng gà gáy sáng đến thế (Gà kia mày gáy chiêu đăm. Cho chúa tao nằm, tao ngủ chút nao!) cũng như sau này Chí Phèo đã chửi đến cả đứa chết mẹ nào đã sinh ra hắn, để cho hắn phải kéo lê kiếp sống “rạch mặt ăn vạ ngày này qua tháng khác như vậy.

Với thân phận phải trải qua bao cảnh ngộ cơ cực đắng cay đó, người lao khổ xưa chứa chất biết bao nông nỗi trong lòng. Bị cách biệt khỏi người thân thuộc, xung quanh hầu như chỉ toàn những kẻ mắng nhiếc, ốp thúc, bắt bẻ, hăm đe... biết giải vây, than thở cùng ai. Ai nghe cho con cuốc giữa trời, dù nó có bao khổ đau, giận hờn nung nấu đến có thể “kêu ra máu” đi chăng nữa? Nỗi khổ miêng ăn, chỗ ngủ không căng thẳng bằng sự cô đơn, không người chia sẻ. Chi tiết ca dao Dẫu kêu ra máu có người nào nghe này thật khổ tâm. Em được biêt ở Nhật, nơi hơn 80% dân số tự nhận mức sống là từ trung lưu trở lên và đều hài lòng với số phận mình, mà dịch vụ “Điện thoại vì cuộc sông” (nhằm giải tỏa những ẩn ức cho người bất hạnh, khỏi sa vào bi kịch cô đơn bế tắc) rất đắt hàng, có ngày chuông réo suốt 24/24 tiếng đồng hồ; thì đủ thấy nhu cầu giải tỏa những nỗi niềm ẩn ức là quan trọng đến mức nào. Vậy mà đây lại không phải người Nhật cuối thế kỉ 20 sung sướng với mức sống hàng đầu thế giới. Đây là những người lao động nghèo khổ của đất nước nông nghiệp nghèo nàn thời trung cổ. Như vậy tâm sự của họ còn bất hạnh gấp bội, nhu cầu giải tỏa của họ còn bức xúc đến đâu! Nhưng cảnh ngộ lại hết sức cô đơn: “có người nào nghe” đâu, không ai thông cảm chia sẻ cho họ cả!

Cực khổ về vật chất, căng thẳng về tinh thần như thế, nên em không ngạc nhiên thấy họ ủ ấp một khát vọng đổi đời thật táo bạo, mạnh mẽ mong cho con vua thất thế lại ra quét chùa thiết tha đón đợi sự thay bậc đổi ngôi hoàn toàn trong xã hội. Phải chăng bằng tất cả kinh nghiệm bản thân của mình cũng như của nhiều đời truyền lại, họ đã nhận ra chỉ có một cuộc nổi can qua quyết liệt như thế mới có thể thay đổi được số phận của mình. Thật bất ngờ, nhũng ngươi lao động nghèo khổ bị đày ải, áp bức bao đời ấy, tưởng đã bị mê mụ, thuần hóa mà cam đành thân phận xuống sông đội đá, lên chùa đội bia của mình. Hóa ra, tích gió thành bão, càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều. Chính những con người quét lá đa, ăn canh cặn, nằm xó lều đó đã không thể nung nấu chí vùng dậy giải tỏa nỗi niềm, đổi đời số phận!

3. Quả là ca dao chứa đựng chân lí cuộc sống, thể hiện nỗi niềm nhân dân một cách trung thực, trong sáng. Em vừa cảm động, vừa sung sướng nhận thức được từ những câu ca dao trên nhiều tâm sự sâu sắc cũng như tiềm lực vĩ đại của nhân dân ta. Tâm sự và tiềm lực ấy, em hiểu nó không chỉ phản ánh một sự thật đã qua trong lịch sử, mà còn có giá trị như những bài học bổ ích cho cuộc sống hôm nay.

BÀI CÙNG NHÓM