Phân tích đoạn thơ sau đây trong đoạn trích “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta..
1. Mở bài
- Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu. Nghe dịu nỗi đau của mẹ. Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ. Các anh không về mình mẹ lặng im... (Đất Nước tôi — Tạ Hữu Yên). Cứ mỗi lần nghe lại bài hát này trong lòng tôi lại gợi nên nồi xốn xao da diết! Nhớ những ngày bé thơ đến lớp. cô giáo dạy tôi viết hai chữ “Việt Nam” và gọi đó là Đất Nước. Tôi mơ hồ chưa hiểu, chỉ biết rằng đó là cái gì lớn lao và thật quý báu lắm! Thời gian trôi qua nhanh, mang tuổi thơ bé bỏng của tôi đi xa. Cho đến hôm nay, qua bao nhiêu vần thơ đọc được tôi đã thấm thìa hai tiếng thiêng liêng Đất Nước.
- Đoạn thơ sau đây là sự khẳng định của nhà thơ về vai trò của nhân dân trong việc làm nên không gian địa lí - bức tranh văn hóa đất nước muôn màu muôn vẻ:
Nhĩmg người vợ nhớ chồng còn góp cho
Đất Nước những núi Vọng Phu
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.
2.Thân bài
a. Khái quát
- Đất Nước là một đoạn trích thuộc chương V trong bản trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm, sáng tác năm 1971, tại chiến trường Bình - Trị - Thiên.
- Qua những vần thơ của Nguyễn Khoa Điềm giúp tôi nhìn ra chân dung của đất nước. Bình dị và trong sáng, hồn hậu và nhân ái, nghèo khổ nhưng oai hùng. Có lẽ chính những điều ấy đã khơi gợi cảm hứng cho các bài thơ, đã gieo vào lòng từng nhà thơ bao suy tư và trăn trở. Từ cảm xúc của những ngày sống hết mình với chiến đấu, từ vốn tri thức khá phong phú của mình, Nguyễn Khoa Điềm đã viết nên những vần thơ - những cảm nhận mới mẻ của mình về đất nước.
-Thật vậy, đây là mười hai câu thơ mở đầu phần hai của đoạn thơ Đất Nước với nội dung ngợi ca, khẳng định tư tưởng Đất nước của Nhân dân.
b. Phân tích
- Trước hết, tác giả nêu ra một cách nhìn mới mẻ, có chiều sâu địa lí về những danh lam thắng cảnh trên khắp các miền đất nước.
+ Nhà thơ đã kể, liệt kê một loạt kì quan thiên nhiên trải dài trên lãnh thổ từ Bắc vào Nam như muốn phác thảo tấm bản đồ văn hóa đất nước.
+ Đây là những danh lam thắng cảnh do bàn tay tự nhiên kiến tạo nhưng từ bao đời nay, ông cha ta đã phủ cho nó tính cách, tâm hồn, lẽ sống của dân tộc. Những ngọn núi, những dòng sông kia chi trở thành thắng cảnh khi nó gắn liền với con người, được cảm thụ qua tâm hồn, qua lịch sử dân tộc.
+ Trong thực tế, bao thế hệ người Việt đã tạc vào núi sông vẻ đẹp tâm hồn yêu thương thủy chung để ta có những “núi Vọng Phu”, những “hòn Trống mái” như những biểu tượng văn hóa. Hay vẻ đẹp lẽ sống anh hùng của dân tộc trong buổi đầu giữ nước đê ta có những “ao đầm”... như những di tích lịch sử về quá trình dựng nước và giữ nước hào hùng:
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thằng cành.
• Thật sự, nếu không có những người vợ mòn mỏi chờ chồng cả thời chinh chiến thì không có sự cảm nhận về núi Vọng Phu.
• Cũng như nếu không có truyền thuyết Hùng Vương dựng nước thì không thể có sự cảm nhận nét hùng vĩ của núi đồi quanh đền Hùng.
+ Nói cách khác, những núi Vọng Phu, những hòn Trống Mái, những núi Bút, non Nghiên không còn là những cảnh thiên nhiên thuần túy nữa, mà được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân. được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, sự hóa thân của những con người không tên, không tuổi.
- Thiên nhiên đất nước, qua cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm, hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước này, đã đặt tên, ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi. dòng sông, tấc đất này.
+ Từ những hình ảnh. những cảnh vật, hiện tượng cụ thể, nhà thơ đã “quy nạp” thành một khái quát sâu sắc:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.
+ Với cấu trúc quy nạp (đi từ liệt kê các hình ảnh, địa danh... đến khái quát mang tính triết lí), dường như nhà thơ không thế kể ra hết những danh lam thắng cảnh và những nét đẹp văn hóa dân tộc vô cùng phong phú, đa dạng trên khắp đất nước.
c. Nhận xét
- Nhà thơ đã khẳng định: trên không gian địa lí đất nước, mỗi địa danh đều là một địa chỉ văn hóa được làm nên bằng sự hóa thân của bao cuộc đời, bao tâm hồn người Việt.
3. Kết bài
- Đoạn thơ thể hiện được đặc điểm tiêu biểu của trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm: chất chính luận hài hòa chất trữ tình, giọng thơ tự sự; ngôn từ, hình ảnh đẹp, giàu sức liên tường. Viết về đề tài Đất nước - một đề tài quen thuộc, nhưng thơ Nguyễn Khoa Điềm vẫn mang những nét riêng, mới mẻ, sâu sắc. Những nhận thức mới mẻ vê vai trò của nhân dân trong việc làm nên vẻ đẹp của đất nước ở góc độ địa lí — văn hóa càng gợi lên lòng yêu nước, tinh thần trách nhiệm với đất nước cho mỗi người.
- Đọc những dòng thơ của Nguyễn Khoa Điềm ta hiểu hơn, yêu hơn, thương hơn đất nước của mình. Yêu hơn quá khứ, hiện tại và hi vọng nhiều ở tương lai. Ta lớn lên, tự tin vững bước trên đường đời để xây dựng đất nước hiện tại và tương lai xứng với tầm vóc của lịch sử của quá khứ.