Văn mẫu lớp 9: Mã Giám Sinh mua Kiều (Trích "Truyện Kiều")

I. Phân tích đoạn thơ "Mã Giám Sinh mua Kiều” trích trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du

Đoạn "Mã Giám Sinh mua Kiều" dài 34 câu, trích trong "Truyện Kiều" từ câu 618-652.

Bị thằng bán tơ vu oan, cha và em trai bị tra tấn, tù đày, tài sản gia đình bị bọn sai nha "sạch sành sanh vét cho dầy túi tham". Trước cảnh gia biến, Kiều đã quyết định: "Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha".

Đoạn thơ ghi lại cảnh Mã Giám Sinh đến mua Kiều và nỗi đau khổ của nàng trước bi kịch gia đình và bi kịch tình yêu "trâm gãy bình tan".

1. Đoạn thơ tả cảnh mua bán người thời trung cổ được kể lại rất cụ thể, sống động. Người mua là Mã Giám Sinh. Kẻ bán là mụ mối. Người bị đem bán là Thúy Kiều. Khách viễn phương đến, mụ mối rước khách vào lầu trang. Mụ mối giục Kiều "kíp ra" cho khách gặp. Mụ mối "vén tóc bắt tay" món hàng mình; Mã Giám Sinh "càn sắc cân tài". Khi khách đã "mặn nồng một vẻ một ưa" mới hỏi giá. Mụ mối thách: "một nghìn vàng". Hai bên "cò kè" mua bán với cái giá "vàng ngoài bốn trăm". Cuộc mua bán xong, hai bên làm thủ tục: "đưa canh thiếp" và hẹn ngày chồng tiền nhận hàng. Cuộc mua bán người lại được trang sức bằng những ngôn từ sang trọng như: mua ngọc, sính nghi, đưa canh thiếp làm nghi, nạp thái vu quy - Đúng như cảnh hỏi vợ, thách cưới của các gia đình quý tộc thời xưa.

Cảnh Mã Giám Sinh mua Khều có giá trị tô' cáo hiện thực sâu sắc. Trong xã hội có bọn người buôn thịt bán người, có loại người làm mối, sống bằng nghề làm mối. Tài sắc của người con gái như Thúy Kiều đã trở thành một món hàng để "cò kè" mua bán. Nhân phẩm của người phụ nữ bị chà đạp. Câu thơ "Tiền lưng dã có, việc gì chẳng xong" là lời bình luận cuộc mua bán, lên án đồng tiền hôi tanh, mặt trái đồng tiền trong tay bọn bất lương, bọn buôn thịt bán người.

2. Đoạn thơ thể hiện nghệ thuật tả người của Nguyễn Du.

Mụ mối: nhanh nhảu, đon đả hỏi họ tên, quê quán viễn khách, rồi "rước vào lầu trang". Giục Kiều ra nhanh (kíp ra), "vén tóc bắt tay " Kiều, khôn khéo thách giá:

"Mối rằng: Đảng giá nghìn vàng,

Dớp nhà nhờ lượng người thương dám nài!"

Tác giả tả cử chỉ, ngôn ngữ mụ mối, làm hiện lên một loại người nhanh nhẹn, khôn khéo, giảo họat, kiếm ăn bằng nghề làm mối trong việc mua, bán người.

Mã Giám Sinh là "viễn khách" đến để "vấn danh" - khách đến hỏi vợ và xin cưới. Cách giới thiệu có vẻ trang trọng. Hai câu tiếp theo là "hỏi - đáp". Cách trả lời cộc lốc, khiếm nhã. Hai chữ "rằng" làm cho khẩu ngữ thêm thô lậu:

"Hỏi tên, rằng: "Mã Giám Sinh",

Hỏi quê, rằng: "Huyện Lâm Thanh củng gần".

Mã Giám Sinh chung lưng vốn với mụ Tú Bà mở ngôi hàng lầu xanh ở Lâm Tri nhưng nói dôì là quê ở "Lăm Thanh cũng gần". Hắn chỉ là một tên buôn thịt bán người nhưng mập mờ khoe hão là sinh viên trường Quốc tử giám, họ Mã, nghĩa là một trí thức phong kiến thuộc tầng lớp quý tộc. Nhân cách hé lộ dần. Ngoài bôn mươi tuổi mà vẫn trai lơ: "Nhẵn nhụi" và "bảnh bao" là hai nét vẽ châm biếm:

"Quá niên trạc ngoại tứ tuần,

Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao".

Cũng "thầy" cũng "tớ", cũng "trước" cũng "sau", có vẻ sang trọng lắm, đi đâu một bước là có kẻ hầu người hạ, nhưng thầy, tớ của ông khách viễn phương này sao mà "lao xao" chẳng có nền riếp, lễ giáo gì! Cái cử chỉ "sỗ sàng", không biết ý tứ gì, không biết giữ lễ phép, dám đường đột leo lên ghế cao ngồi "tót"! Nếu là sinh viên trường Quốc tử giám thật, thì hắn ta rất kém sĩ hạnh.

"Trước thầy sau tớ lao xao,

Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.

Ghế trên ngồi tót sỗ sàng..."

Một chữ "tói" đầy khinh bỉ, đã vạch trần chân tướng kẻ "Quen mồi lại kiếm ăn miền nguyệt hoa".

"Cân sắc cân tài", "ép", "thử",... những cử chỉ, cách thức mua người ấy của tên lái buôn họ Mã mới thật ghê tởm! Chỉ sau khi đã "mặn nồng một vẻ một ưa", Mã Giám Sinh mới thật "dặt diu" mua bán. Hắn là kẻ khôn ngoan đến róc đời, trong mọi mánh lới buôn thịt bán người. Cũng sang trọng kiểu cách như ai. Chẳng qua chỉ là hoa hòe hoa sói thớ lợ:

"Rằng: "Mua ngọc đến Lam Kiều",

Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường".

Hai chữ "cò kè" đã bóc trần bản chất bủn xỉn của một kẻ "Quanh năm buôn phấn bán hương đã lề".

Qua nhân vật Mã Giám Sinh, ta càng thấy rõ bút pháp hiện thực trong nghệ thuật tả người của Nguyễn Du. Nét vẽ nào cũng sắc sảo tạo nên tính cách xấu xa, đồi bại của nhân vật Mã Giám Sinh. Chi tiết nghệ thuật nào cũng rất sống, đằng sau nét vẽ là thái độ khinh bỉ của nhà thơ đốì với loại người bạc ác tinh ma này! Bức chân dung phản diện của Mã Giám Sinh có giá trị tố cáo hiện thực đặc sắc, lên án bọn buôn thịt bán người vô nhân đạo, đạo đức giả trong xã hội phong kiến suy tàn, thôi nát.

Kiều là một thiếu nữ hiếu thảo, giàu đức hi sinh. Trước cảnh gia biến nàng đã bán mình để chuộc cha, để cứư gia đình. Nàng tự xem thân mình như "hạt mưa" nhỏ bé, hèn mọn. Tất cả vì "ba xuân", một lòng đền đáp công ơn sinh thành của cha mẹ:

"Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,

Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân".

Kiều sông trong tâm trạng bi kịch dữ dội giữa tình riêng với tình nhà, giữa chữ tình với chữ hiếu, "nỗi mình thêm tức nỗi nhà". Nàng vô cùng đau khổ. Bao nhiêu nước mắt, bao nhiêu "lệ hoa" đã tuôn rơi, cả người nàng như héo hon, rũ xuốrig: "ngại ngùng",... "bóng thẹn",... "mặt dày", "nét buồn như cúc điệu gầy như mai". Vì là người đẹp đau khổ cho nên các ẩn dụ so sánh mà nhà thơ sử dụng đều gắn liền với cái đẹp: thềm hoa, lệ hoa "nét huồn như cúc, điệu gầy như mai". Kiều bị mụ mốì và Mã Giám Sinh "ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ". Mã Giám Sinh đã "đắn đo cân sắc cân tài". Con người Kiều, tài sắc Kiều đã trở thành món hàng đem ra mua bán. Nguyễn Du đã ca ngợi lòng hiếu thảo, đức hi sinh của Kiều trước gia biến, cảm thương cho nỗi đau khổ của nàng khi Mã Giám Sinh "cân sắc cân tài", khi bị hắn "cò kè bớt một thêm hai"... Đoạn thơ chứa chan tinh thần nhân đạo là ở những chi tiết ấy.

"Mã Giám Sinh mua Kiều" là đoạn thơ có giá trị tố cáo đanh thép và sâu sắc nhất trong "Truyện Kiều". Nguyễn Du đã dựng nên một bức tranh tả thực sắc sảo giúp chúng ta thấy rõ được bộ mặt tàn ác, ghê tởm của bọn buôn thịt bán người trong xã hội, ở đây là Mã Giám Sinh. Nhà thơ đã lên án, mặt trái đồng tiền hôi tanh "Tiền lưng đã có, việc gì chẳng xong!". Đồng cảm, xót thương cho số phận nàng Kiều: phải bán mình chuộc cha. Thương tiếc tài sắc giai nhân bị dập vùi. Đó là giá trị nhân đạo.

Đoạn thơ thể hiện bút pháp nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Du trong tự sự (cảnh mua Kiều), trong tả người', tả Mã Giám Sinh, tả mụ mối thì sử dụng bút pháp hiện thực, chi tiết hiện thực; tả Kiều thì thiên về ước lệ. Rất biến hóa, tài tình. Ngôn ngữ mang sắc thái biểu cảm đầy ân tượng.
Tóm lại, cảnh "Mã Giám Sinh mua Kiều" có giá trị tố cáo hiện thực và chứa chan tinh thần nhân đạo. Đoạn thơ là sự khởi đầu tiếng kêu thương của một kiếp đoạn trường.

II. Phân tích nhân vật Mã Giám Sinh trong đoạn thơ “Mã Giám Sinh mua Kiều”.

Đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” là đoạn mở đầu trong đoạn đời 15 năm trời lưu lạc đau khổ của nàng Kiều. Đoạn thơ dài 34 câu, từ câu 619 đến câu 652 trong “Truyện Kiều”.

Đoạn thơ làm sông lại một cảnh mua bán người thời trung cổ, thể hiện bút pháp nghệ thuật tự sự và tả người của thi hào Nguyễn Du. Nét đặc sắc nhất là nghệ thuật miêu tả và khắc họa nhân vật Mã Giám Sinh.

Trước cảnh gia biến, Kiều là đứa con chí hiếu quyết bán mình chuộc cha thoát khỏi vòng tù tội:

“Hạt mưa sả nghĩ phận hèn,

Liều đem tấc cỏ, quyết đền ba xuân”.

Khách đến mua Kiều là “người viễn khách” được mụ mối đưa vào để “vấn danh”, để ăn hỏi và xin cưới! Cách giới thiệu có vẻ trang trọng. Phải chăng “viễn khách” đi tìm người đẹp để “cầu hôn?”.

“Gần miền có một mụ nào,

Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh”.

Khách tự giới thiệu mình là “kẻ sĩ” - sinh viên trường Quốc tử giám, chỉ nói họ không xưng tên, rất kiểu cách quý tộc; sau đó giới thiệu quê hương bản quán: “huyện Lâm Thanh củng gần”. Hai chữ “rằng” nối tiếp nhau xuất hiện biểu lộ một thái độ kiêu kì coi thiên hạ bằng nửa con mắt. Khẩu ngữ đối đáp của “viễn khách” vừa hợm hĩnh vừa thô lậu, khiếm nhã:

“Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh”,

“Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần”.

Đọc “Truyện Kiều” ta mới thấu tỏ nguồn gốc “viễn khách”. Y với mụ Tú Bà là những kẻ “Làng chơi đã trở về già hết duyên”. Sông ở Lâm Truy “Quanh năm buôn phấn bán hương đã lề”. Sinh viên trường Quốc tử giám, “huyện Lâm Thanh củng gần” mà Mã Giám Sinh tự giới thiệu chỉ là một sự khoe mẽ, bịp bợm. Viễn khách chỉ là một kẻ buôn thịt bán người “Quen mồi lại kiếm ăn miền nguyệt hoa”.

Đây là bức chân dung truyền thần tên lái buôn họ Mã:

“Quá niên trạc ngoại tứ tuần,

Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao”.

Nhân cách y hé lộ dần. Cái “nhẵn nhụi” của mày râu gợi lên một ấn tượng dung tục, tầm thường; cái “bảnh bao” của áo quần biểu lộ một tính cách giả dối. “Mày râu nhẵn nhụi” và “áo quần bảnh bao” là hai hình ảnh, hai nét vẽ châm biếm Mã Giám Sinh “vẫn là một đứa phong tình đã quen”.

Lần đầu Kim Trọng gặp Thúy Kiều, người đẹp có bao giờ quên được hình ảnh văn nhân:

“Đề huề lưng túi gió trăng,

Sau lưng theo một vài thằng con con”.

“Vài thằng con con” là những chú tiểu đồng đáng yêu. Mã Giám Sinh cũng có “thầy - tớ”, cũng có “trước - sau”, ra vẻ sang trọng, lên bộ quan dạng, mỗi bước đi là có kẻ đón người đưa, có kẻ hầu người hạ. Nhưng giữa thầy và tớ của ông khách viễn phương này sao mà “lao xao” ồn ào, lộn xộn, không chút lễ giáo, thiếu nền nếp, đáng khinh:

“Trước thầy sau tớ lao xao”

Mới được mụ mối “rước vào lầu trang”, cách ứng xử, cách đứng ngồi của Mã Giám Sinh càng bộc lộ tư cách của kẻ hạ lưu lại còn hợm mình lên mặt:

“Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang,

Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”.

Cái lối “ngồi tót” là cách ngồi của bọn con buôn, của “phường buôn thịt”, của “quân buôn người”\ Cái cử chỉ “sỗ sàng” là cử chỉ của những kẻ thiếu nhân cách vừa thiếu lễ độ, lịch sự vừa thiếu tự trọng. Hắn coi thường phẩm giá con người. Kẻ chỉ biết “kiếm ăn miền nguyệt hoa” mới có lối “ngồi tót” và cử chỉ “sỗ sàng” ấy!
Mã Giám Sinh là một kẻ buôn thịt bán người lọc lõi “quanh năm buôn bán phấn hương đã lề”. Khi mụ mối “vén tóc, bắt tay” món hàng thì hắn “cân sắc” rồi “cân tài”, hắn “ép”, hắn “thử”, hắn bắt Kiều đánh đàn, làm thơ một cách “đắn đo” suy tính kĩ càng. Người “quốc sắc thiên hương” đối với hắn chỉ là một món hàng:

“Đắn đo cân sức cân tài,

Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ”.

Và chỉ sau khi đã “mặn nồng một vẻ một ưa”, Mã Giám Sinh mới “tuỳ cơ dặt dìu” mua bán. Tuy nói là “mua ngọc”, tuy lên giọng cao sang là “sính nghi”, nhưng vẫn “cò kè” lúc thì “bớt một”, lúc thì “thêm hai”. Thời gian mặc cả người đẹp đã kéo dài mãi đến “giờ lâu” mới “ngã giá”:

“Cò kè bớt một thèm hai,

Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm”.

Cảnh “Mã Giảm Sinh mua Kiều” đã thể hiện cái tâm và cài tài của Nguyễn Du. Qua nhân vật Mã Giám Sinh, nhà thơ đã tố cáo, lên án và khinh bỉ “phường bán thịt, quân buôn người” trong xã hội thôi nát. Tài sắc của người phụ nữ trở thành một món hàng, nhân phẩm họ bị chà đạp xuống vũng bùn nhơ! Câu thơ “Tiền lưng đã sẵn, việc gì chẳng xong!” là một lời kết án đanh thép những kẻ bất lương làm giàu trên thân xác người phụ nữ.

Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp nghệ thuật hiện thực, lựa chọn những chi tiết tiêu biểu nhất, đặc sắc nhất về trang phục, dáng vẻ, cử chỉ, ngôn ngữ, cách mua bán... để khắc họa tính cách nhân vật Mã Giám Sinh. Hắn là một kẻ phong tình, giả dối, bủn xỉn, thuộc “Tuồng vô nghĩa, ở bất nhân” như Tú Bà đã hạ nhục hắn.

Chữ nghĩa dưới ngòi bút thi hào có một ma lực ghê gớm, tạo nên những nét vẽ sắc sảo như: nhẵn nhụi, bảnh bao, lao xao, ngồi tót, sỗ sàng, dặt dìu, cò kè... Hình ảnh nhân vật Mã Giám Sinh trong “Truyện Kiều” đã trở thành một điển hình cho bọn “buôn phấn bán hương” trong mọi xã hội xưa nay; góp phần tô đậm giá trị hiện thực của áng thơ kiệt tác này.

BÀI CÙNG NHÓM