Văn mẫu lớp 9: Con chó Bấc

I. Giới thiệu một vài nét về G.Lân-đơn

Giắc Lân-đơn (1876-1916) là nhà vãn hiện thực Mĩ nổi tiếng đầu thê" kỉ XX. Thời thơ ấu và thanh niên của ông là những năm dài vất vả kiếm sống. Mãi đến năm 1895, ông mới được vào Đại học Ơc-cơ-len, vừa gác cổng vừa đi học. Năm 1896, ông theo đoàn người đi tìm vàng đến vùng Klân-đai-cơ thuộc Ca-na- đa và đã nếm đủ mọi mùi gian khổ, cay đắng: đói rét, bệnh tật, hiểm nguy, cái chết rình rập,...

Năng khiếu văn học bộc lộ khá sớm ngay từ thời sinh viên. Sau chuyên đi dài, đi xa, đi tìm vàng, hàng loạt tác phẩm của ông ra đời: “Tiếng gọi nơi hoang dã" (1903), “Mac-tin Ê-đen” (1903), “Gấu hiển” (1904), “Tỉnh yều cuộc sống” (1907), “Gót sắt” (1907), v.v...

II. Giới thiệu tiểu thuyết “Tiếng gọi nơi hoang dã” của G.Lân-đơn

Năm 1903, tiểu thuyết “Tiếng gọi nơi hoang dã” ra đời, đó là kết quả của chuyến đi tới Klân-đai-cơ tìm vàng. Tác phẩm đã gây một tiếng vang rất lớn.
Bấc là một con chó tinh khôn và trải qua nhiều bất hạnh. Nó bị bắt cóc đưa lên vùng A-lax-ca trên Bắc cực để kéo xe trượt tuyết cho những người đi tìm vàng. Bấc như một vật chuyển đổi, phải làm việc cực nhọc trong bão tuyết, phải qua tay nhiều chủ độc ác và nhẫn tâm, bị bạc đãi. Nó đã sông những năm tháng với Giôn Thoóc-tơn vô cùng đẹp đẽ, tình nghĩa, “một tình yêu thương thực sự nồng nàn”. Mấy lần Bấc dũng cảm xả thân cứu chủ khi cái chết đã cầm chắc trong tay. Giôn Thoóc-tơn là người có lòng nhân từ đối với nó, cảm hóa nó. Giữa vùng Bắc cực băng giá, người và vật đã sông trong tình bạn ít có. Sau khi Giôn Thoóc-tơn đột ngột qua đời, Bấc như mất hồn, đau đớn. Nó dứt bỏ con người hoàn toàn, đi theo tiếng gọi nơi hoang dã và trở thành một con sói hoang...

Tiểu thuyết “Tiếng gọi nơi hoang dã” không chỉ phản ánh cuộc sống và những mảnh đời dữ dội của những đoàn người đi tìm vàng. Họ mong có một cơ may đổi đời, nhưng đã phải đổ bao nhiêu máu và nước mắt. Tác phẩm giàu tính nhân bản. Nhà văn kể lại đời sông phong phú kì lạ của con chó Bấc như muốn nhắn gửi độc giả một đôi điều: Không chỉ con người phải được sống trong tình thương mà loài vật cũng phải được sống trong tình thương. Mất tình thương, tâm hồn bị khô héo, người và vật trở lại bản năng hoang dã.

“Tiếng gọi nơi hoang dã” là cuốn tiểu thuyết vô song trong thế kỉ XX đã có những trang viết về con chó hay nhất, cảm động nhất, tình nghĩa nhất.

III. Hãy phân tích và nêu cảm nghĩ của em khi đọc “Con chó Bấc” trích tiểu thuyết “Tiếng gọi nơi hoang dã” của G. Lân-đơn.

Đọc “Tiếng gọi nơi hoang dã” ta như được đi theo đoàn người đi đào vàng lên vùng A-la-xca, Bắc cực mênh mông tuyết trắng, với những cảnh, những con người với bao ấn tượng mạnh mẽ, dữ dội không cùng. Đặc biệt những trang viết về con chó Bấc, viết về mối quan hệ cảm động giữa Giôn Thoóc-tơn với con chó Bấc là hay nhất, cảm động nhất. Nhà vãn không miêu tả ngoại hình, sinh họat bản năng của con chó Bấc mà đi sâu vào thế giới bên trong - thế giới tâm hồn - của con vật, hình như mang nặng tình người hiếm có, cảm động. Đoạn văn “Con chó Bấc” là một đoạn văn ngọt ngào chất thơ khi nói về một tình thương giao cảm thắm thiết giữa người với vật nuôi.

Có lẽ vì đã trải qua những tháng ngày kéo xe trượt tuyết nặng nhọc, gặp phải những ông chủ độc ác, con chó Bấc mới hiểu sâu sắc thế nào là tình người. Miếng ăn của nó kiếm được là roi vọt, là sự bố thí của những con người tàn nhẫn và đang khát vàng. Cho nên từ ngày con chó Bấc được Giôn Thoóc-tơn cứu sống, nó mới được sông trong “một tình yểu thương thực sự và nồng nàn lần đầu tiên phát sinh ra bên trong nó". Nó cũng đã một lần ít ỏi được hưởng hương vị của tình thương khi chưa bị bắt cóc lên Bắc cực, đó là những ngày sống trong nhà ông Thẩm phán Milơ giữa thung lũng Xan-ta Cla-ra mơn man ánh nắng. Con Bấc chẳng bao giờ quên những ngày tháng êm đẹp và ngắn ngủi ấy. Những lần đi săn, đi lang thang với mấy cậu con trai ông Thẩm “tình cảm của Bấc củng chỉ là thứ tình cảm làm ăn cùng hội cùng phường”. Với các cháu nhỏ của ông Thẩm “đó là một thứ trách nhiệm hộ vệ trong niềm kiêu hãnh tự cao tự đại”. Còn với ông Thẩm “là thứ tình bạn trịnh trọng và đường hoàng”.

Lân-đơn đã có một cách nói rất đặc sắc về mốì quan hệ của Bấc với những thành viên trong gia đình Thẩm phán Milơ. Bấc chỉ là một con chó săn, một con chó giữ nhà, và là một con chó cảnh. Thế thôi!

Còn từ ngày nó được sống với Giôn Thoóc-tơn, nó được ông chủ, ông bạn mới “khơi dậy” lên trong lòng Bấc những tình thương yêu, những tình cảm chưa hề được hưởng, chưa hề có: “sôi nổi, nồng cháy, thương yểu đến mức tôn thờ, thương yêu đến cuồng nhiệt...”.

Tình cảm vui, buồn, thương yêu, giận dữ cũng tựa như dòng nước có độ tràn, có hẹp và mênh mông, có sức chảy nhanh, chậm. Mọi dòng nước đều có nguồn cũng như mọi tình cảm đều có nguồn. Cậi nguồn tình cảm sâu xa mà Bấc tìm thấy ở Giôn Thoóc-tơn là anh đã “cứu sống nó”, anh là “ông chủ lí tưởng”. Những người khác nuôi Bấc là xuất phát từ nghĩa vụ và lợi ích kinh doanh để Bấc đi săn, giữ nhà, là vật nuôi làm cảnh... và để kéo xe trượt tuyết đi tìm vàng. Còn Giôn Thoóc-tơn đã coi Bấc là “con cái của anh” vậy. Cái nguồn gốc ấy mới sâu sắc và cao quý làm sao, vì nó đã vượt hẳn lên trên môi quan hệ con vật với con người, đi tới môi quan hệ của tình thương, tình người. Mốì quan hệ tình cảm ấy, con Bấc đã cảm nhận được bằng trực giác, bằng cảm xúc, bằng sự tinh nhạy, khôn ngoan mà chỉ có những con chó như con Bấc mới có.

Giôn Thoóc-tơn “đã chăm sóc”, lúc là một lời chào “hớn hở”, lúc là một cử chỉ “thân ái”, có lúc anh ngồi xuống rất lâu “nói chuyện” với Bấc mà cả hai đều tương thân, đều đồng cảm, đều “thích thú”. Giôn Thoóc-tơn “có thói quen túm chặt lấy đầu Bấc rồi đưa đầu anh vào đầu nó, hoặc lắc nó đảo qua đảo lại, vừa lắc vừa khe khẽ thót lên những tiếng rủa mà đối với nó lại là những lời nói nựng âu yếm". Với con Bấc, đó là những giây phút thần tiên mà chỉ có Giôn Thoóc-tơn mới trao cho nó trong sự vuốt ve, yêu thương. Lúc đó, con Bấc cảm thấy “không có gì vui sướng bằng cái ôm ghì mạnh mẽ”, “tiếng rủa rủ rỉ bên tai”. Sự vui sướng của Bấc đến cực độ, có lúc nó cảm thây “quả tim mình nhảy tung ra khỏi lồng ngực”.

Tình yêu thương giữa người và vật nuôi cũng có “cho”“nhận” trong mối giao cảm, giao hòa, tương tác. Đây là một đoạn văn tuyệt bút nói về mốì quan hệ sâu sắc, đẹp đẽ và hiếm có ấy:

“Khi được buông ra, nó bật đứng dậy thẳng lên, miệng cười, mắt hùng hồn diễn cảm, họng rung lên những ăm thanh không thốt nên lời, và cứ như vậy trong tư thế đứng yên bất động. Những lúc ấy, Giôn Thoóc-tơn lại kêu lên, trân trọng: “Trời đất! Đằng ấy hầu như biết nói đấy!”.
Bấc như một đứa trẻ giàu tình cảm, nó “có một kiểu biểu lộ tình thương yểu gần giống như làm đau người ta”. Nó hay cắn vào tay Giôn Thoóc-tơn “ép răng xuống mạnh đến nỗi vết răng hằn vào da thịt một lúc sau mới mất”. Và chỉ có anh mới cảm nhận một cách hạnh phúc rằng “cải cắn vờ ấy là cử chỉ âu yếm, yêu thương”.

Lân-đơn với tình yêu thương loài vật, với cái tài quan sát và diễn tả, đặc biệt ông đã phát hiện ra, đã “sống” với những rung động, với những biến thái tâm tình, ông đã “hiểu được” ngôn ngữ riêng của một vật nuôi đã được thuần dưỡng và gắn bó lâu đời với con người, một vật nuôi khôn nhất, trung thành nhất và giàu tình cảm nhất, để nói lên một cách xúc động về mối quan hệ “sôi nổi, nồng cháy, thương yêu đến mức tôn thờ, thương yêu đến mức cuồng nhiệt” giữa Giôn Thoóc- tơn và con Bấc.

Nếu như phần đầu, nhà văn đã lấy mối quan hệ giữa con Bấc với gia đình Thẩm phán Mi-lơ để làm nổi bật mối tình yêu thương đặc biệt giữa con Bấc với Giôn Thoóc-tơn, thì ở phần giữa ông lại so sánh cách biểu hiện tình cảm của con Bấc và những con chó khác đối với chủ, mỗi con một vẻ. “Xơ-kit có thói quen thọc cái mủi của nó vào dưới bàn tay của Thoóc-tcm rồi hích hích mãi cho đến khi được vỗ về... Nich thì... tựa cái đẩu to lớn của nó lèn đầu gối của Thoóc-tơn”. Còn Bấc thì diễn đạt tình thương yêu bằng “sự tôn thờ”, sung sướng đến “cuồng lên” khi được Thoóc-tơn “vuốt ve” hoặc “nói chuyện” với nó... Thế giới loài vật được Lân-đơn nhìn nhận và miêu tả như thế giới con người, tràn ngập tình yêu thương và biết sống trong sự giao cảm đầy hạnh phúc! Con Bấc “thường nằm phục ở chân Thoóc-tơn hàng giờ, mắt hau háu, tỉnh táo, linh lợi, ngước nhìn thẳng vào mặt anh, chăm chú vào đấy, xem xét kĩ nét mặt, theo dõi với một mối quan tâm đặc. biệt từng biểu hiện thoáng qua, mọi cử động hoặc đổi thay trên thần sắc”. Có lúc con Bấc ngắm nhìn chủ từ phía sau, và bằng linh cảm, giao cảm giữa người và chó, anh quay đầu nhìn lại, đôi mắt Thoóc-tơn “tỏa rạng tình cảm tự đáy lòng”, còn “tình cảm của Bấc cũng ngời ảnh lên qua đôi mắt nó”.

Cách ngồi, cái ngước nhìn, cái lắng nghe và theo dõi cặp mắt và ánh mắt... của con chó Bấc hiện lên trên trang văn như một linh hồn người, trong biểu cảm có
chiều sâu lí trí, trong tâm hồn có cả chiều cao của tư duy. Con chó Bấc không chỉ có tình yêu thương mà còn có cả những suy nghĩ sông bên “ông chủ lí tưởng”.
Con chó Bấc cũng có nỗi lo. Cuộc đời ba chìm bảy nổi đã qua luôn ám ảnh nó, “nó không muốn rời Thoóc-tơn ra một bưóc”. Nó luôn luôn sợ, Thoóc-tơn cũng lại biến khỏi cuộc đời của nó như Pê-rôn và Phơ-rãng-xoa và anh chàng người lai Ê-cốt đã đi qua rồi biến mất trước đây. Cả trong giấc mơ, nó cũng bị nỗi lo sợ này ám ảnh. Đêm nào nó cũng tỉnh giấc giữa chừng, rồi trườn qua giá lạnh đến đứng ở mép lều “lắng nghe tiếng thở đều đều của chủ”. Chi tiết ấy là một nét vẽ cảm động gợi lên trong lòng ta nhiều cảm thương xót xa. À ra thế đó, không chỉ riêng ở con người, mà cả những vật nuôi như con chó Bấc tinh khôn, cũng sợ li biệt! Nhà văn Lân-đơn đã nói được điều đó và diễn đạt bằng những hình ảnh giàu giá trị nhân bản.

Nhà văn Lân-đơn đã lấy tình thương để tả loài vật. ông đã miêu tả sống động, hấp dẫn một con chó mang tình người. Nó đã sống tình nghĩa thủy chung như con người. Chúng ta học tập Lân-đơn nghệ thuật tinh tế, biểu cảm trong miêu tả loài vật. Con chó Bấc nhân hậu, tình nghĩa đã làm cho thế giới tâm hồn chúng ta trở nên phong phú đổì với những vật nuôi trong gia đình. Biết sông trong tình người, trong tình thương là cách sống đẹp nhất..

BÀI CÙNG NHÓM