Làng Dóng, vốn là tên gọi nguyên sơ để chỉ một làng Việt cổ nay là khu vực các Đổng Viên, Đổng Xuyên, Phù Đổng và cả Phù Dực, thuộc xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội, làng mở hội hàng năm từ ngày mùng 6 đến 12 tháng Tư âm lịch, chính hội là mùng 9. Hội Dóng là lễ hội lớn nhất và phong phú, nghiêm trang nhất của đâ't Kinh Bắc xưa.
Hội Dóng dường như bao quát không gian phân bố của quần thể các di tích về người anh hùng làng Dóng, như nơi sinh thành, không gian sông thuở nhỏ, nơi thờ tự sau khi thăng hoa... Hội Dóng còn trình diễn lại các chứng tích bất diệt của người anh hùng, trong cuộc đọ sức với kẻ thù một cách ngoan cường và toàn thắng.
Theo tục truyền thì hội lễ Dóng hàng năm được tổ chức với quy mô như chúng ta thấy, bắt đầu từ vua Lý Thái Tổ (1010 - 1028) (chính vị vua đầu triều đại Lý này đã tạo dựng ngôi đền Dóng và tổ chức hội lễ, cùng lúc dựng lại chùa Kiến Sơ, nằm kế đền Dóng, nơi mà thuở hàn vi ông đã nương nhờ cửa Phật).
Hội Dóng bắt đầu từ ngày mùng 6 tháng Tư âm lịch, bằng một lễ rước nước, khoảng 15 giờ chiều hôm đó. Theo truyền thông thì tất cả những người tham dự hội đều có mặt. Đoàn người rước hai chum “thiêng” từ đền Thượng đến đền Mẫu và đặt lên bệ bên bờ giếng, có 80 quân phù giá xếp thành hai hàng bên bậc xuống giếng. Người đứng gần mép nước kính cẩn múc từng gáo nước chuyền lên đổ vào chum qua một lớp vải lọc.
Sáng mùng 7, rước cỗ chay (cơm với cà) từ đền Mẫu về đền Thượng,
Có múa Ái Lao. Buổi trưa có múa rối nước ở ao trước đền Thượng. Chiều là rước khám đường, với ý nghĩa thăm dò đường đến trận địa.
Ngày mùng 8, duyệt lại 28 nữ tướng, chọn tướng nhất, tướng nhì của mỗi giáp.
Ngày mùng 9, chính hội Dóng, tương truyền là ngày Dóng đánh thắng giặc Ân và về vườn nhà cũ hái cà, theo kinh nghiệm thì hôm đó buổi sáng trời mưa, buổi trưa trời nắng. Mở đầu hội là cuộc rước cờ từ đền Mẫu đến đền Thượng. Khi đám rước về đến đền Thượng, đốt pháo hoa, đội quân của Dóng biểu diễn hàng ngũ và các động tác quân sự theo nhịp trông “tùng, teng”.
Tiếp đó phường múa Ải Lao diễn trò săn hổ, theo điệu múa hổ, không khí hội náo nức nhưng trang nghiêm. Tiếp theo, khi có trinh sát về báo giặc Ân vây đóng ở Đông Đàm, thế là chiêng, trông lại nổi lên, đoàn người tiến về Đông Đàm dưới hình thức một đám rước lớn, đoàn quân theo thứ tự: hai tướng tiên phong, áo đỏ quần vàng; 12 em bé cầm roi song (tượng trưng “làng áo đen áo đỏ”); ông hổ; phường Ải Lao; các tướng của Dóng; sau cùng đoàn quân xếp thành hai hàng dài khi qua đền Mẫu, mọi người dừng chân cúi đầu chào mẹ Dóng. Đến chiến trường, hiệu trông nổi ba hồi to, mọi người im lặng tưởng nhớ Dóng; hiệu trung quân đốt tràng pháo ra lệnh tiên công, tướng tiên phong đáp lại bằng ba hồi trông con; cờ lệnh bắt đầu mở, tung bay trước gió, trong tiếng chiêng trông và hò reo vang dậy một vùng trời.
Trận chiến đấu chống giặc Ân bắt đầu bằng điệu múa cờ lệnh là lúc tướng giặc Ân tan tác bỏ chạy.
Sau chiến thắng, đám rước lại trở về đền Thượng, hàng tổng mở tiệc khao quân, nhưng vào giữa bữa tiệc, trinh sát cấp báo quân giặc đang vây ở Sòi Bia nên đoàn quân Dóng tiến về Sòi Bia. Cuộc chiến đấu dũng cảm diễn ra được tượng trưng bằng điệu múa cờ lệnh, theo thể thức lần múa trước ở Đông Đàm. Khi điệu múa chấm dứt, quân giặc đại bại, tướng giặc bị bắt giải về đền Thượng cùng với trông chiêng rền vang báo tiệp. Tại đây hiệu cờ múa chém tướng giặc. Tiếp đó, làm lễ dâng thủ cấp giặc cho Dóng. Lễ xong, tiệc khao lại thịnh soạn trong không khí chiến thắng bao trùm lễ hội.
Ngày mùng 10 tháng Tư là lễ rước văn, đế’ duyệt quân và kiểm tra vũ khí, đồng thời cử hành lễ tạ ơn Dóng và hội mừng thắng lợi khao quân, lễ thả 26 tướng giặc (vì có 2 vị bị chém), tướng giặc dâng lễ vật lên bàn thờ Dóng và cùng dự tiệc với quân của Dóng.
Ngày 11 tháng Tư, lễ rửa hội, một hình thức rước nước về đền rửa tự khí và vũ khí, lại múa hát nhộn nhịp.
Ngày 12 tháng Tư, rước cắm cờ, là cuộc xem lại hai chiến trường, phòng có tên giặc nào sống sót, rồi cắm cờ an toàn. Buổi chiều làm lễ báo tiệp với đất trời và làm lễ hạ hồi; bốn nghệ nhân xuất sắc của phường Ai Lao múa hát vang bài Lạc Thành ca ngợi chiến công to lớn của quân dân đời Hùng Vương.