Tựa “Trích diễm thi tập” là một bài tựa nổi tiếng của Hoàng Đức Lương. Ồng là người làng Cửu Cao, huyện Văn Giang, nay thuộc tỉnh Hưng Yên, sau chuyển đến ở làng Ngọ Kiều, Gia Lâm, Hà Nội. ông đỗ tiến sĩ năm năm 1478 và để lại một số tác phẩm có giá trị như: Trích diễm thi tập, đề tựa năm 1479, thơ chữ Hán ngày nay còn lại 25 bài chép trong Trích diễm thi tập, sau này được Lê Quý Đôn đưa vào Toàn Việt thi lục.
Trong công việc biên soạn cũng như sáng tác, Trần Đức Lương bộc lộ một quan niệm thẩm mĩ tiến bộ. Đó là sự chú ý đến tính thẩm mĩ của văn chương. Tấm lòng yêu nước của ông được thể hiện qua tinh thần trách nhiệm, ý thức trân trọng, giữ gìn di sản văn hoá dân tộc.
Tựa là bài văn đặt ở đầu tác phẩm văn học hoặc sử học, địa lí, hội hoạ, âm nhạc... nhằm giới thiệu mục đích, nội dung, quá trình hình thành và kết cấu của tác phẩm ấy. Bài tựa có thể do tác giả tự viết hoặc do một ai đó thích thú tác phẩm mà viết. Cuối bài tựa thường có phần lạc khoản, ghi rõ họ tên, chức tước của người viết và ngày tháng, địa điểm làm bài tựa. Bài tựa cũng thể hiện những quan điểm mang tính thời đại và của chủ quan người viết. Văn của thể tựa có tính chất thuyết minh, thường được kết hợp với nghị luận và tự sự, có khi mang sắc thái trữ tình. Bài. Tựa “Trích diễm thi tập” này nằm trong Trích diễm thi tập (1497), một tập thơ gồm sáu quyển do Hoàng Đức Lương sưu tầm, tuyển chọn tác phẩm của các tác giả từ thời Trần đến thời Tiền Lê.
Bài tựa được chia làm hai phần. Phần thứ nhất, tác giả nêu lên lí do làm sách Trích diễm thi tập. Phần hai là quá trình hoàn thành tác phẩm. Ngoài ra còn phải kể đến phần Lạc khoản ở cuối bài tựa.
Về nghệ thuật của bài tựa, đáng lưu ý Ịà sự mạch lạc hiếm có trong lập luận. Mạch lập luận rất sáng rõ, đi theo trình tự: Những lí do khiến thơ vãn không lưu truyền được, ý thức gìn giữ, tinh thần trân trọng di sản văn hoá dân tộc, công việc biên soạn sách.
Những phân tích và trình bày lí lẽ được kết hợp với yếu tố biểu cảih làm tăng thêm sức thuyết phục cho những điều tác giả muốn diễn đạt. Bày tỏ thái độ đốì với thực trạng thất truyền của thơ văn, sách vở, ông thể hiện lòng tha thiết đối với vẻ đẹp của thơ văn; đặt ra những câu hỏi đầy day dứt, thể hiện sự xót xa trước thực trạng thơ văn không được lưu truyền và với những mặt trái của đời sống xã hội. Đoạn trích đồng thời thể hiện trực tiếp tinh thần tự trọng, ý thức dân tộc và niềm đau xót của cá nhân người viết. Những câu văn như Than ôi ! Một nước văn hiến, xây dựng đã mấy trăm năm, chẳng lẽ không có quyển sách nào có thể làm căn bản, mà phải tỉm xa xôi để học thơ văn đời nhà Đường. Như thế chả đáng thương xót lắm sao? khiến lòng người cũng rưng rưng đồng cảm.
Về nội dung, tác giả bày tỏ quan điểm về những lí do khiến thơ văn không lưu truyền hết ở đời, chia sẻ những suy nghĩ thôi thúc mình biên soạn Trích diễm thi tập và quá trình biên soạn tác phẩm.
Theo tác giả, có lí do khách quan và lí do chủ quan khiến thơ văn không lưu truyền hết ở đời. Thứ nhất, chỉ thi nhân mới thấy được cái hay, cái đẹp của thơ ca. Thứ hai, người có học thì ít quan tâm đến thơ ca. Thứ ba, ngựời quan tâm đến thơ ca thì năng lực kém, không đủ kiên trì. Thứ tư, chính sách phát hành của nhà nước còn nhiều hạn chế.
Ngoài ra thơ văn không lưu truyền được ở đời còn vì những lí do khách quan. Lí do này được tác giả phân tích trong đoạn từ Vì bốn lí do kể trên...” đến “... mà không rách nát tan tanh, cụ thể là: Thời gian làm hư nát sách vở, binh lửa chiến tranh tiêu huỷ.
Xuất phát từ những bức xúc trong tình hình biên soạn sách về thơ ca Việt Nam ở thời của tác giả (các lí do khiến thơ văn không được lưu truyền) và suy nghĩ về trách nhiệm bảo vệ, giữ gìn những giá trị văn hiến dân tộc đã khiến Hoàng Đức Lương chắp bút viết bài tựa.
Quá trình biên soạn Trích diễm thi tập rất công phu. Đầu tiên phải sưu tầm, biên soạn sách thơ văn một công việc có nhiều khó khăn. Tiếp đến là thu lượm, chọn lấy những bài tiêu biểu, phân loại. Cuốì cùng là biên soạn thành sáu quyển, ở cuối mỗi quyển có tác phẩm do chính tác giả viết.
Tựa “Trích diễm thi tập” là một bài tựa - một tác phẩm văn học quý thể hiện một tấm lòng, một niềm tâm huyết lớn lao đối với nền văn học, văn hoá dân tộc.