Phân tích vẻ đẹp của ngôn ngữ nghệ thuật trong Tự tình (bài II)

Thơ thất ngôn bát cú Đường luật lâu nay vẫn được điểm trang bằng những từ Hán Việt đài các, trau chuốt đường bệ. Ta có thể thấy tính mẫu mực ấy trong những vần thơ của Bà Huyện Thanh Quan: “Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo/ Nền cũ lâu đài bóng tịch dương”. Đến Hồ Xuân Hương, việc sử dụng ngôn từ cho thể thơ này đã khác hẳn. Bà đã lấy vẻ đẹp bình dị của những lời ăn tiếng nói hàng ngày trong dân gian để tạo nên nét đẹp riêng cho những vần thơ Đường luật quen thuộc. Có thể đơn cử bài Tự tình II.

Có thể nói, đến thế kỉ XVII, việc Việt hoá ngôn ngữ thơ ca dân tộc đã được đẩy nhanh đẩy mạnh. Nhưng hiếm ai đem những từ bình dị, gần gũi thậm chí “tầm thường” như thế này vào thơ: “cái” (hồng nhan), “toạc” (đâm toạc), “tí con con”,... Bình thường, từ chỉ xuất “cái” được đi kèm với những vật dụng tầm thường: cái dao, cái kéo,... thậm chí hàm ý coi thường: cái mặt, cái con bé này,... Từ “toạc” cũng vậy, “toạc” có nghĩa là rách to theo chiều dài. Với ý nghĩa ấy, thi nhân trung đại không biết dùng để gợi điều gì!? Từ “tí” lại được dùng nhiều trong khẩu ngữ “tí tẹo”, “tí hin”,...Từ trước đến nay, với quan niệm thơ là những lời đẹp, hiếm ai trọng dụng những lời lẽ như vậy. Nhưng việc sử dụng những từ ấy không hề làm bài thơ Đường luật bớt hay, ngược lại ý thơ thêm bội phần tinh tế. Gọi “cái hồng nhan” để nhấn mạnh cái sự “trơ” ra bẽ bàng, cô đơn, tủi hờn. Gọi “cái hồng nhan” để đối với “nước non”, có vậy hai vế đối mới cân nhau ngang ngửa. Cũng như vậy, ngoài từ “toạc” khó từ nào có thể thay thế được vào vị trí của từ này trong câu thơ: “Xiên ngang mặt đất rêu từng đám/ Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”. Câu thơ diễn tả tâm trạng bất mãn, muốn phá phách, muốn “nổi loạn”. Ngoài từ “toạc” còn từ nào hay hơn? Với từ “tí” cũng đã có lần Nguyễn Khuyến dùng trong Thu điếu: “Sóng biếc theo làn hơi gợn tí”, nhưng ở đây, nữ sĩ sử dụng từ đặc biệt này rất tài tình: đặt trong mối quan hệ với những từ gần nghĩa theo ý tăng cấp: “Mảnh tình - san sẻ - tí con con”. “Mảnh” đã là chút thừa chút thẹo ít ỏi; nó lại bị “san sẻ” chia năm chia bảy nên còn lại tí chút và là chút “tí con con” mỏng manh khó thoả lòng người. Chút tình thừa, tình sẻ ấy ai chẳng não lòng buồn tủi? Điểm suốt bài thơ, những ngôn từ giản dị ấy không phải là hiếm: “trơ”, “ngán”, “đi", "lại”,... Ngôn ngữ nghệ thuật trong Tự tình nói riêng và thơ Hồ Xuân Hương nói chung mang vẻ đẹp của sự bình dị mà vô cùng tinh tế. Điều đó góp phần Việt hoá thể thơ Đường luật vốn cầu kì, nghiêm ngặt về hình thức, kén chọn về nội dung. Với những ý nghĩa ấy, ngôn từ giản dị, gần gũi trong thơ Hồ Xuân Hương còn mang vẻ đẹp của tình yêu ngôn ngữ dân tộc, của lòng yêu nước thiết tha sâu nặng.

BÀI CÙNG NHÓM