Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế để chụp một bức ảnh biển sáng sớm có sương mù nhằm bổ sung vào bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển. Phùng vác máy ảnh đi tới một vùng biển, từng là chiến trường cũ của anh thời kháng chiến chống Mĩ; và cũng nhân chuyến đi công tác này, anh ghé thăm Đẩu, người bạn đồng đội năm xưa, hiện đang là chánh án một toà án huyện.
Sau một tuần lễ tìm kiếm, "phục kích”, sáng nay Phùng đã thu vào máy ảnh một cảnh thật "đắt” trời cho, đẹp như một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ. Đó là cảnh một mũi thuyền đang hướng vào bờ, hiện lên trong bầu sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào; vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng hiện ra sau tấm lưới căng ra giữa hai gọng và y hệt cánh một con dơi... Phùng gác máy ảnh lên bánh xích của chiếc xe tăng bấm "liên thanh” một hồi hết một phần tư cuộn phim, thu vào chiếc Pra-ti-ca. Phùng vô cùng hạnh phúc và mãn nguyện do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại.
Ngay lúc ấy, lại có một chiếc thuyền đâm thẳng vào trước chỗ Phùng đang đứng. Một người đàn ông và một người đàn bà rời thuyền, lội qua một quãng bờ phá đi lên bãi cát. Người đàn ông nói chõ lên như quát: “Cứ ngồi nguyên đấy, động đậy tao giết cả mày đi bây giờ”. Người đàn bà đi trước thô kệch, rỗ mặt, dáng vẻ mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới. Theo sau là một người đàn ông tóc tổ quạ, chân chữ bát, hai con mắt độc dữ. Thật bất ngờ, khi đi qua chiếc xe tăng đến bên chiếc xe rà phá mìn, lão đàn ông hùng hổ, mặt đỏ gay, lấy chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa quật tới tấp vào lưng người đàn bà. Hắn vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm rãng nghiến ken két, nguyền rửa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày đi chết cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ!”. Người đàn bà nhẫn nhục, không hề kêu lên một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn.
Phùng kinh ngạc, vội vứt chiếc máy ảnh xuống đất, nhào tới. Nhưng có một đứa bé lao qua trước mặt anh, như một viên đạn lao thẳng tới đích. Nó giằng được chiếc thắt lưng da, vung thẳng chiếc khoá sắt quật vào giữa ngực đầy lông đen hắc ín loăn xoăn của lão đàn ông. Giằng lại chiếc thắt lưng không được, lão dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát ngã dúi xuống, rồi lão lẳng lặng đi về phía thuyền, nom lão như một con gấu đang đi tìm nguồn nước uống.
Người đàn bà mếu máo cất tiếng gọi: “Phác, con ơi!”. Người đàn bà ngồi xệp xuống bãi cát, ôm chầm lấy thằng bé; đứa con lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt người mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rổ chằng chịt. Thật bất ngờ, người đàn bà buông đứa trẻ ra, đi thật nhanh đuổi theo lão đàn ông, cùng trở về chiếc thuyền.
Trên bãi cát chỉ còn lại Phùng và thằng Phác, cả hai đều đứng trơ ra ngơ ngác nhìn ra bờ phá nơi ban nãy chiếc thuyền đậu. Như trong truyện cổ đầy quái đản, chiếc thuyền lưới vó đã biến mất.
Chỉ ba hôm sau, lão đàn ông độc dữ ấy lại đánh vợ trên bãi cát. Thằng Phác cầm dao găm làm vũ khí để bảo vệ người mẹ, nhưng chị gái đã tước đi con dao. Nghệ sĩ Phùng vội xông ra buộc lão đàn ông phải chấm dứt hành động độc ác. Anh đã bị hắn đánh bị thương, phải nằm điều trị ở trạm y tế của toà án huyện.
Mấy ngày sau, khi các vết thương trên mặt đã lên da non, tại phòng toà án huyện, Phùng được chứng kiến cảnh chánh án Đẩu gặp người đàn bà thuyền chài mặt rỗ. Anh đã được nghe câu chuyện của chị ta.
Lúc đầu, mụ ta khúm núm, sợ sệt, chỉ dám tìm đến một góc tường để ngồi. Vị chánh án mời, mụ cũng chỉ dám rón rén ngồi vào mép chiếc ghế mây và cố thu người lại. Khi nghe vị chánh án hỏi “chị đã nghĩ kĩ chưa” thì mụ ngước nhìn Đẩu rồi cúi mặt xuống. Mụ ta nhìn Đẩu rồi chắp tay vái lia lịa: “Con lạy quý tòa ... Qúy toàn bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...”.
Ngồi trong phòng, Phùng cảm thấy ngột ngạt quá, anh vội vén lá màn bước ra. Người đàn bà thuyên chài chợt nhìn thấy, cứ nhấp nhổm xoay mình như bị kiến đốt. Lát sau nghe vị chánh án nói chủ trương nguyên tắc của toà án là kêu gọi hoà thuận, thì người đàn bà thuyền chài từ vẻ ngơ ngác ban đầu liền đột nhiên thốt lên bằng giọng khẩn thiết: “Chị cám ơn các chú...”. Với điệu bộ khác, ngôn ngữ khác, người đàn bà thuyền chài kể về cuộc đời mình, cảnh ngộ mình. Thuở nhỏ, là con nhà khá giả ở trên phố, sau một trận lên đậu mùa, mạt bị rỗ; xấu gái không ai lấy. Có mang với anh con trai một nhà hang chài. Lão chồng chị khi ấy tuy cục tính nhung hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập vợ. Chị ta chép miệng nói về chuyện đẻ nhiều, con đông, thuyền nhỏ, ngày trước rất khổ, nhất là những ngày động biển, vợ chồng con cái phải ăn xương muối có khi hàng tháng trời. Chồng trốn đi lính nguỵ nên càng thêm nghèo khổ, túng quẫn. Từ ngày cách mạng về đã đỡ khổ hơn. Chị ta cho biết đàn bà thuyền chài đẻ nhiều quá, người nào cũng có một sắp con trên dưới chục đứa. Đàn ông thuyền chài khổ quá, hoặc uống rượu hoặc đánh vợ. Khi con cái đã lớn, chị ta mới xin được với chồng là có đánh thì đưa lên bờ mà đánh. Chị ta nói như tâm sự: trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Cũng có lúc vui, đó là lúc vợ chồng hoà thuận, là lúc ngồi nhìn đàn con được ăn no. Các chú không phải là đàn bà nên không thể biết được như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông. Đám đàn bà hàng chài ở thuyền cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba biển động...
Nghe người đàn bà thuyền chài kể, vị Bao Công của cái phố huyên vùng biển trở nên nghiêm nghị và đầy suy nghĩ.
Người đàn bà thuyền chài đã khóc khi nghe Phùng hỏi về thằng Phác. Chị ta cho biết, nó là đứa con mà mụ ta thương nhất; nó giống như lột cái lão đàn ông từng hạnh hạ mụ. Vì sợ nó làm điều gì dại dột với bố nó, mụ đã gửi nó lên rừng ở với ông ngoại. Tuy được sống sung sướng hơn, nhưng nó hay trốn về. Nó tuyên bố với các bác ở xưởng đóng thuyền rằng, nó còn có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó không bị đánh...