Phân tích bức chân dung tự họa của Nguvễn Công Trứ trong Bài ca ngất ngưởng

Từ xa xưa đến nay, thơ trước hết là tấm gương phản chiếu tâm hồn và tình cảm của chính nhà thơ. Không những thế, qua thơ người đọc còn thấy rất rõ cốt cách và phong độ của mỗi thi nhân. Ai đó đã nói văn là người. Điều đó thật đúng với những nhà văn, nhà thơ lớn. ở họ văn với người là một, con người trong văn chương và con người ngoài đời tuy không hẳn đồng nhất, nhưng rất thống nhất. Nguyễn Công Trứ thuộc những nhà văn như thế. Cho nên, qua Bài ca ngất ngưởng ta có thể hình dung rất rõ chân dung một Nguyễn Công Trứ tự họa.

Bao trùm lên toàn bộ bài ca là hình tượng một con người "ngất ngưởng".

Nhưng đó không phải là cái ngất ngưởng của một người gàn dở, tự hợm mình và hợm đời, mà là cái ngất ngưởng của một con người đầy tự tin và đầy bàn lĩnh. Con người ấy ý thức rất rõ vế tài năng và phẩm giá của chính mình. Cái ngất ngường của Nguyễn Công Trứ không phái là kiểu sổng ngất ngưởng thông thường mà là một lối sống độc đáo, một vẻ đẹp ngang tàng, phóng túng của một tâm hồn lớn. một nhân cách lớn.

Chẳng thế mà ngay từ câu đầu của bài ca, Nguvễn Công Trứ đã coi: mọi việc trong trời đất chẳng có việc nào không phải phận sự của ông "Vũ trụ nội mạc phi phận sự". Câu thơ toàn là âm Hán, vang lên trang trọng, thiêng liêng, biểu lộ một thái độ đầy tự tin, kiêu hãnh và một ý thức rất sâu sắc về trách nhiệm của chính minh. Không phải ngẫu nhiên mà khi đọc thơ văn Nguyễn Công Trứ chúng ta thấy rất nhiều lần ông nhắc tới "Chí nam nhi", "Chỉ làm trai", "Chí tang bồng” "Phận sự làm trai", "Nợ nam nhi", "Nợ tang bồng" ... Phải chăng đó chính là lẽ sống tập thể tích cực của một nhà Nho chân chính. Trong bài thơ này thái độ tự tin, kiêu hành ấy lại được thồ hiện bằng một giong điệu ’’ngất ngưởng", "ngang tàng". Cứ xem cách xưng hồ ở câu thơ thứ hai,

Nguyễn Công Trứ tự gọi minh là "Ông Hi Văn", tự giới thiệu chính mình là người có tài lớn và coi việc ra làm quan như "đã vào lồng", ta cũng đủ thấy rất rõ thái độ người viết vừa như trang nghiêm, lại vừa như "u mua", hài hước

Thái độ ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ không phải chi lúc làm quan đương chức "Khi thủ khoa, khi tham tán, khi tổng đốc Đông". Hoặc: "Lúc bình Tây, cờ Đại tướng; có khi về Phù đoài Thừa Thiên" mà sau khi về hưu, không làm quan nữa, thái độ ấy càng thêm đậm nét, tính cách "ngất ngưởng" càng thêm ổn định. Phải chăng khi đã thoát ra khỏi chốn quan trường, khi đã "tháo cũi, sổ lồng", không chịu một sự ràng buộc nào nên ông càng trở nên "ngất ngưởng" Ông ngất ngưởng trong cung cách sống. Một cách sống có vẻ khác người, ngược đời: người đời thường cưỡi ngựa, Nguyễn Công Trứ cưỡi bò, đeo nhạc ngựa và thung dung trong tư thế:

"Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi

Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì

Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng"

Không chỉ mình cùng cách sống, thái độ ngất ngưởng của ông còn thể hiện rất rõ trong quan niệm được mất và sự lạc quan, bình thản trước cuộc đời:

"Được mất dương dương người tái thượng

Khen chê phơi phới ngọn Đông phong"

Cũng giống như chuyện ông già biên ải mất ngựa (Tái ông thất mã), Nguyễn Công Trứ quan niệm được mất là lẽ thường tình; ở đời may rủi hay sướng khổ đều như nhau, vì thế không cò gì phải vội vàng hốt hoảng. Cũng như khen chê là chuyện bình thường, có gì mà phải bi quan sầu muộn, hãy phơi phới như ngọn Đông phong; hay "quẳng gánh lo đi mà vui sống” (Lâm Ngữ Đường):

’Khi ca, khi tửu, khi cấc, khi từng

Không Phật, không Tiên, không vướng tục"

Trong xã hội phong kiến, một xã hội đầy những khuôn mẫu, lễ nghi và nhiều luật lệ hết sức chặt chẽ, hà khác, quan niệm và cách sống ngất ngưởng, "ngông nghênh" kiêu Nguyễn CôngTrứ như trên quá là một sự thách thức, một sự "chòng ghẹo” cuộc đời. Thực ra thái độ và cách sống ấy của ông được bắt nguổn từ một bản lĩnh và một ý thức muốn khẳng định cái cá nhân độc đáo của mình. Dường như ông muốn chống lại sự vùi dập và bóp nghẹt cái tôi cá nhân của xã hội phong kiến thời bấy giờ. Mặt khác, quan niệm và cách sống ấy cũng bắt nguồn từ sự tự ý thức rất rõ về tài năng và phẩm giá của chính bản thân minh. Chẳng thế mà ông tự ví mình với bao danh tướng từ đời Hán đến đời Tống của Trung Hoa: "Chẳng Trải, Nhạc cũng vao phường Hàn, Phú". Chẳng thế mà ông đau đầu một tấm lòng trước sau thủy chung như nhất: "Nghĩa vua tôi cho trọn dạo sơ chung". Câu thơ rưng rưng một niềm cảm động và vang lên như một lời thề son sắt. Sinh ra và lớn lên vào buổi giao thời cuối Lê đầu Nguyễn, ông đỗ đạt và làm quan vào thời kỳ mà nhà Nguyễn mới thống nhất đất nước, chấm dứt nội chiến, củng cố quân quyền và phục hưng Nho học. Hoàn cảnh lịch sử ấy là cơ sở tình thần cho cả một tầng lớp Nho sĩ đang ham hở bước vào một triều đại mới với một lẽ sống mới, cố gắng vươn lên trong một vận hội mới để khẳng định mình. Chính Nguyễn Công Trứ từng tự nhủ:

"Đã lỡ sinh ra trong trời đất

Phải có danh gì với núi sông"

Ông tâm niệm thế và đã làm được hơn thế. Tên tuổi của ông đã dược non sông ghi nhận. Hình bóng và phong cách của Nguyễn công Trứ vẫn còn in đậm trong mỗi trang thơ của chính ông.

Kết thúc bài ca, Nguyễn công Trứ viết: "Trong triều ai ngất ngưởng như ông", Câu thơ buông lấp lửng: vừa như hỏi vừa như khẳng định; vừa như tự hào, ngợi ca, vừa tự giễu mình một cách thấm thía; vừa như là lời tự bạch của ông, lại vừa như một nhận xét bình giá của người đời . . Đúng là câu thơ và cả bài thơ củng "ngất ngưởng” như ông vậy. Cái vẻ đẹp ngất ngưởng từ bài ca và cuộc đời Nguyễn Công Trứ đã trở thành một cách sống, một "mẫu hình” in đậm trong hàng loạt nhà Nho tài tử sau này. Ta như còn gặp lại hình bóng và cốt cách ấy của ông ở một Tú Xương, một Tản Đà - Nguyễn Khác Hiếu và phần nào ở nhà văn Nguyễn Tuân ngày nay.

BÀI CÙNG NHÓM