Đang chuẩn bị liên kết để tải về tài liệu:
Sự thực hiện chức năng sinh đẻ của gia đình Việt Nam hiện nay
Đang chuẩn bị nút TẢI XUỐNG, xin hãy chờ
Tải xuống
Theo quan điểm của xã hội học, gia đình là một thiết chế xã hội đặc biệt. Bởi vì, gia đình thực hiện các chức năng vô cùng quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Một trong những chức năng cơ bản nhất của gia đình là chức năng sinh đẻ. | JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE Social Sci. 2012 Vol. 57 No. 6 pp. 127-133 SỰ THỰC HIỆN CHỨC NĂNG SINH ĐẺ CỦA GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY Nguyễn Thanh Bình Trường Đại học Sư phạm Hà Nội E-mail ngthanhbinh56@yahoo.com Tóm tắt. Theo quan điểm của xã hội học gia đình là một thiết chế xã hội đặc biệt. Bởi vì gia đình thực hiện các chức năng vô cùng quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Một trong những chức năng cơ bản nhất của gia đình là chức năng sinh đẻ. Có thể khẳng định rằng không có một thiết chế xã hội nào có thể đảm nhiệm được chức năng đó một cách chính thức ngoài thiết chế gia đình. Dựa trên kết quả điều tra dân số ở Việt Nam trong những năm gần đây bài viết phân tích các khía cạnh khác nhau về sự thực hiện chức năng sinh đẻ của gia đình Việt Nam. Từ khóa Gia đình Việt Nam chức năng sinh đẻ điều tra dân số thực hiện. 1. Mở đầu Cùng với sự biến đổi kinh tế-xã hội trong những năm gần đây gia đình Việt Nam cũng có sự biến đổi nhất định. Tuy nhiên gia đình vẫn thực hiện những chức năng cơ bản đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội chức năng sinh đẻ chức năng kinh tế chức năng giáo dục và chức năng chăm sóc người già. Trong đó chức năng sinh đẻ là một trong những chức năng quan trọng nhất mà gia đình phải đảm nhiệm. Vậy xu hướng sinh đẻ ở các gia đình Việt Nam hiện nay như thế nào Bài viết sẽ phân tích các nội dung cụ thể xoay quanh vấn đề nêu trên. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Mức sinh của các gia đình Việt Nam có xu hướng giảm dần Trong các thước đo về mức sinh tổng tỷ suất sinh TFR là một chỉ số được thế giới cũng như Việt Nam sử dụng để đánh giá mức sinh là cao hay thấp. Tổng tỷ suất sinh được định nghĩa là số con trung bình mà một người phụ nữ sinh ra trong suốt cuộc đời sinh đẻ của mình từ 15 tuổi đến 49 tuổi . Mức sinh của các gia đình Việt Nam đã giảm rõ rệt từ năm 1999 đến năm 2009 Biểu đồ 1 . Số con trung bình của mỗi phụ nữ đã giảm từ 2 33 con năm 1999 xuống còn 2 03 con năm 2009. Ngoại trừ mức sinh năm 2004 mức sinh thời kỳ 1.4.2003 -