Đề bài:
Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái, có thể nói cảm hứng yêu nước và tự hào dân tộc nhiều khi đã lấn át cả thái độ thiên vị với triều Lê. Điều đó đã mang lại những trang viết thực và hay.
Phân tích hồi thứ mười bốn của tác phẩm này để chứng minh nhận xét trên
Bài làm:
Khi cho rằng “Nhà văn là người thư kí trung thành của thời đại” có lẽ tác giả của nhận định nảy đã nghĩ đến những trang viết chân thực, sống động phản ánh trung thành bản chất của thời đại mà nhà văn đó sống. Điều này khiến độc giả Việt Nam nhớ đến một tác phẩm “thực và hay” như thế: “Hoàng Lê nhất thống chí” của Ngô Gia Văn Phái. Có ý kiến cho rằng: trong “Hoàng Lê nhất thống chí” của Ngô Gia Văn Phái, có thể nói cảm hứng yêu nước và tự hào dân tộc nhiều khi đã lấn át cả thái độ thiên vị với triều Lê. Điều đó đã mang lại những trang viết thực và hay”. Chỉ riêng qua hồi thứ mười bốn của tác phẩm ta đã thấy rõ điều này.
"Hoàng Lê nhất thống chí” phản ánh thời kì lịch sử cuối thế kỉ XVIII của đất nước ta. Khi ấy, triều đình vua Lê chúa Trịnh đang suy đồi, thối nát, khởi nghĩa nông dân nổi lên liên tiếp mà tiêu biểu là phong trào nông dân Tây Sơn của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lư. Ngô Gia Văn Phái là tập thể tác gia gồm nhưng anh em họ Ngô Thì như, Ngô Thì Chí, Ngô Thì Du,... Họ đều là nhưng bậc quan thần của triều đại vua Lê, chúa Trịnh.
Hồi thứ mười bốn của tác phẩm tái hiện chiến thắng lẫy lừng của Quang Trung - Nguyễn Huệ trong xuân Kỉ Dậu và sự thảm bại của bè lũ vua Lê Chiêu Thống và quân Thanh xâm lược. Theo thói thường, đứng về phía triều đình, NNgô Gia Văn Phái phải coi lực lượng của Quang Trung là “giặc cỏ”. Nhưng vượt lên những quan điểm chính trị thông thường, tập thể tác giả họ Ngô đã có cái nhìn tiến bộ về sự kiện chấn động lịch sử này. Họ nhìn cuộc khởi nghĩa dưới ánh sáng của sự khách quan trong tiến trình vận động lịch sử. Bởi thế, hình ảnh vua Quang Trung hiện lên với những vẻ đẹp phi thường của bậc đại tướng. Còn bè lũ Chiêu Thống và Tồn Sĩ Nghị thật ngu ngốc và thám hại đến đáng thương. Chính sự chân thật của lịch sử cùng sự sống động của ngòi bút những tác giả họ Ngô đã tạo nên những trang viết “thực và hay” đến thế.
Trong đoạn trích, hình tượng người anh hùng dân tộc Quang Trung hiện lên vô cùng đẹp đẽ, phi thường.
Đó là con người có hành động mạnh mẽ, quyết đoán và có trí tuệ sáng suốt, sâu xa, nhạy bén. Nghe tin giặc đánh chiếm đến tận Thăng Long, ông không hề nao núng mà quyết định thân chinh cầm quân đi ngay. Trong vòng một tháng từ 24 tháng 11 đến 30 tháng Chạp ông đã liên tiếp làm nhiều việc. Việc ông tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế nhằm thu phục lòng dân và có danh nghĩa ra Bắc dẹp giặc. Tiếp đó, nhà vua đốc xuất đại binh ra Bắc, trên đường đi, Quang Trung vừa gặp gỡ người cống sĩ ở huyện La Sơn vừa tuyển quân lính và mở cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An phủ dụ tướng sĩ, định kế hoạch hành quân đánh giặc. Những việc đó thần tôc và sáng suốt vô cùng.
Nó cho phép nhà vua thu nạp được người tài và binh tướng dồi dào, tinh nhuệ. Lời phủ dụ quân lính của ông sâu sắc và thấm thía:
"Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho chúng chích luân hất phản
Đánh cho chúng phiến giáp hất hoàn
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ...”
Những lời ấy đã khẳng định chủ quyền dân tộc của ta và hành động xâm lăng phi nghĩa, trái đạo trời của giặc, nêu bật dã tâm của giặc. Đồng thời, nêu cao truyền thống chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta, kêu gọi quân lính, ra kỷ luật. Lời phủ dụ như một bài hịch ngắn gọn, ý tứ phong phú, sâu xa có tác động kích thích lòng yêu nước và truyền thống quật cường của dân tộc. Ngay sau đó, ông đã họp với tướng sĩ để lên kế hoạch đối phó quân Thanh. Ông tỏ ra sáng suốt trong việc xét đoán và dùng người.
Bên cạnh đó, Quang Trung - Nguyễn Huệ còn là người có ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng. Mới khởi binh nhưng ông đã khẳng định "Phương lược đã tính sẵn... mười ngày sẽ đuối được người Thanh". Sau đó, ông còn tính kế hoạch ngoại giao sau chiến tranh đối với một nước "lớn gấp mười lần mình" để có thế dẹp binh đao đế cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng. Điều này ở Nguyễn Huệ đã khẳng định rằng ông thực sự
Là một tài năng quân sự, một nhà mưu lược tài ba. Trong những cuộc chiến tranh phong kiến ở Việt Nam, hiếm có một vị tướng nào tính toán thần tình và sâu xa đến vậy.
Bước vào cuộc chiến, nhà vua đã thể hiện tài dụng binh như thần. Nhà vua đã chú trương một cuộc hành quân thần tóc. Ngày 25 thằng Chạp xuất quân ở Huế. Ngày 29 tới Nghệ An (350km qua núi đèo). Tuyên quân tô chức đội ngũ, duyệt binh 1 ngày. Hôm sau: ra Tam Điệp (150km). Đêm 30 tháng Chạp lên đường ra Thăng Long. Và điều đặc biệt là tất câ đều đi bộ!
Từ Tam Điệp trở ra (150km) vừa hành quân vừa đánh giặc. Ngày 5 Tết vào Thăng Long (trước đó, Quang Trung đã định liệu là ngày mùng 7, như vậy là vượt kế hoạch hai ngày!). Dù việc hành quân liên tục nhưng cờ nào, đội ấy vẫn chỉnh tề. Điều này khẳng định tài cầm quân của người làm tướng như vua Quang Trung.
Trong trận chiến với quân Thanh, hình ảnh nhà vua hiện lên vô cùng oai phong, lầm liệt. Ông thân chinh cầm quân, đóng vai trò là tổng chi huy chiến dịch thực sự, hoạch định, phương lược tiến đánh, tố chức quân sự từ thông lĩnh một mũi quân tiên công, cưỡi voi dí đốc thúc, xông pha tên đạn.
Dưới sự lãnh đạo tài tình của vị tổng chỉ huy áo vái, quân Tây Sơn đã đánh trận thật lẫy lừng: Bắt sông quân do thám ở Phú Xuyên đế giư bí mật, tạo bất ngờ; vây kín làng Hà Hồi, quân lính vây quanh dạ ran làm cho lính trong đồn sợ hãi đều xin hàng; công phá đồn Ngọc Hồi lâ’y ván ghép quấn rơm ướt đê tránh tên lửa của địch,./ Khí thê của đội quân này làm cho ké thù khiếp vía.
Trong việc khắc họa hình ảnh chân dung vua Quang Trung - Nguyễn Huệ, các tác giả đã thể hiện sự tôn trọng sự thật lịch sử và ý thức dân tộc. Dù có cảm tình với nhà Lê họ không thế bỏ qua sự thực là vua Lê đã hèn yếu "cõng rắn cắn gà nhà". Chiến công lừng lẫu của Quang Trung là niềm tự háo lớn lao của cả dân tộc. Bên cạnh đó, các nhà văn cũng đá khắc họa thật sinh động hình ảnh bè lũ bán nước và cướp nước.
Bọn Tôn Sĩ Nghị, sầm Nghi Đống không đề phòng, chi lo yến tiệc vui chơi. Chúng ngạo mạn gọi quân Tây Sơn là lù “giặc có”. Nhưng khi đội quân “giặc cỏ” ấy đến thì chỉ biết tháo chạy và nhận lấy những cái chết thê thám. Tôn Sĩ Nghị thì cắt râu bỏ trốn, sầm Nghi Đông thắt cô tự tử. Bọn quân lính thì chen lấn, xô đấy, dẫm lên nhau mà chạy về nước.
Bọn vua tôi phán dân hại nước Lê Chiêu Thống cũng chịu chung số phận. Thê thám nhục nhã nhất là vua Lê phải lê thán sang đất Bắc đế rồi chịu cái chết băng giá nơi đất khách quê người.
Đây là đoạn văn miêu tả chân thực tình cảnh khốn khố của vua Lê Chiêu thống.Tác giả văn gửi gắm ở đó một chút cảm xúc riêng của người bề tôi cũ của nhà Lê. Điều này được thể hiện qua những giọt nước mắt và thái độ săn sóc của người Thổ hào với giọng văn ngậm ngùi.
Hồi thứ mười bốn của “Hoàng Lê nhất thống chí” của Ngô gia văn phái cùng toàn bộ tác phẩm thực sự là những áng văn - sử chân thực, sinh động. Tập thể nhà văn chẳng những thế hiện thành công vai trò “thư kí của thời đại” của mình mà còn đế lại trong lịch sử văn học dân tộc một dấu ấn đậm nét của tài năng vá tâm đức.