Nêu cảm nhận khi đọc đoạn trích truyện “Ông già và biển cả” của nhà văn Hê-minh-uê

Hê-minh-uê (1899-1961) là nhà văn Mỹ, được giải thưởng Nô-ben về văn học năm 1954. Vốn là phóng viên từng tham gia hai cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai, Hê-minh-uê để lại dấu ấn sâu sắc trên mảng đề tài: những cuộc săn bắt thú, Giã từ vũ khí, Chuông nguyện hồn ai, ông già và biển cả, … là những tác phẩm của Hê-minh-uê được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.

“Ông già và biển cả" là một truyện vừa, kể lại chuyên ông chài Xan-chi-a-gô trong một chuyến ra khơi may mắn đã đánh bắt được một con cá kiếm khổng lồ. Khi giong thuyền đưa cá về bến thì bị đàn cá mập đuổi theo; lão đã dùng mái chèo, dùng chày chống trả dữ dội. Thuyền cập bến, lão thiếp đi trong căn lều nhỏ. Du khách xúm quanh con thuyền ngắm nhìn con cá kiếm chi còn lại bộ xương với cái đuôi tuyệt đẹp.

Đoạn trích có hai cảnh: 1, Cảnh con cá kiếm mắc câu vùng quẫy cố thoát trước khi bị phóng lao chết; 2, Cảnh lão chài giong thuyền đưa cá về bến.

1. Bước sang ngày thứ ba, khi mặt trời đang mọc thì con cá kiếm mắc câu đang lượn vòng vùng vẫy. Trước cái chết, con cá lượn vòng, làm căng sợi dây câu; con cá "quay tròn" tạo nên những "vòng tròn rất lớn”.  Xan-chi-a-gô phải “dùng cả hai tay, lắc người, dốc hết lực của cả cơ thể, của chân trụ ra mà kéo". Có lúc lão “phải dốc sức ra mà níu", quyết "khuất phục" con mồi. Hai giờ sau, khi con cá “chậm rãi lượn vòng", các vòng tròn lượn cứa nó "đã hẹp hơn nhiều” con cá đang ngoi dần lên trong lúc bơi, thì lão chài "mồ hôi ướt đẫm... mệt thấu xương". Mọi cái giá của lao động đối với người câu cá trên biển cả, lúc này, lão chài mới thật thấm thía: hoa mắt, mồ hôi xát muối vào mắt và trán, chóng mặt, choáng váng... “khiến lão sợ". Lão muốn đọc một trăm lần kinh lậy Cha và một trăm lần kinh Mừng Đức Mẹ để cầu mong “Chúa giúp…chịu đựng".

Khi con cá "quật đột ngột" làm cho sợi dây nẩy mạnh, hình như nó đau quá "cuồng lên", lão chài bèn vốc ít nước biển vỗ lên đầu mình, rồi tì gối vào mũi thuyền, quàng sợi dây len lưng, lão tự nhủ mình "đứng dậy chiến đấu”.

Biển dậy sóng, gió mậu dịch nổi lên. Con cá lượn vòng, lúc ở mũi thuyền, lúc ở đuôi thuyền, mãi đến vòng thứ ba, lần đầu tiên lão nhìn thấy con cá. Thoạt tiên thấy "một cái bóng đen” lão thắc mắc hỏi: "Nỏ không thể lớn như thế được”. Nhưng khi con cá trồi lên, lão ngạc nhiên thấy: "Cái đuôi lớn hơn cả chiếc lưỡi hái lớn, màu tím hồng dựng lên trên mặt đại dương xanh thẳm". Khi nó lặn xuống còn mấp mé mặt nước, ông chài chăm chú nhìn "thân    hình đồ sộ và những sọc màu tía trên mình nó. Cánh vi trên lưng xếp lại, còn bộ vây to sụ bên sườn xoè rộng”.

Cuộc đấu giữa người và cá cứ diễn ra giằng co mãi. Cá mỗi lúc một đuối sức dần, nhưng vẫn cố vùng vẫy. Lão chài "toát mổ hôi” tự động viên mình: "Hãy bình tĩnh vàgiữ sức, lão già ạ”. Nhìn thấy lưng con cá đã nhô lên, nhìn thấy cái đuôi đồ sộ cử động, con cá "khẽ nghiêng mình ", lão vừa ra sức kéo con cá vào gần thuyền vừa nói: “Ta đã di chuyển được nó... Ta đã di chuyển được nó rồi”. Một mình giữa biển cả mênh mông, như muốn xua đi nỗi cô đơn, lão "tám sự" với tay, với chân, với đầu của mình: “Kéo đi, tay ơi... Hãy đứng vững, đôi chân kia. Tỉnh táo vì tao, đầu à.  Hãy tỉnh táo vì tao. Bọn mày chưa bao giờ bại trận. Lầnn này ta sẽ lật được nó”.

Con cá kiếm không chí là "đối tượng" săn bắt, không chỉ là giằng co, mà còn là "bạn", là "người anh em" đối với lão chài. Trước lúc phóng lao, khi miệng “khô khốc”, mệt nhoài,  khi đã "đuối sức”, lão nói với con cá kiếm bằng tất cả tâm tình: “Mày đang giết tao, cá à... Tao chưa bao giờ bất kì ai hùng dũng, duyên dáng, bình tĩnh, cao thượng hơn mày, người anh em ạ. Hãy đến và giết ta đi. Ta không quan tâm chuyện ai giết ai”...

Cái gì đến thì nhất định sẽ đến. Con cá kiếm mỗi giờ một đuối sức dần. Lúc thì nó "rướn thẳng mình ”, lúc thì nó "chầm chậm bơi xa” cái đuôi đồ sộ “lắc lư trong không trung", lức thì nó "bơi nghiêng”, mõm gần chạm tới mạn thuyền trong “cơn hấp hối”. Lão chài buông sợi dây xuống, giẫm chân giữ, nhấc cao ngọn lao, vận hết sức bình sinh phóng lao xuống sườn con cá, ngay sau cái ngực đồ sộ của nó. Con cá kiếm bị trúng lao “rơi sầm xuống làm nước bắn tung trùm cả ông lão và con thuyền”. Đôi tay lão chài “xây xát”;còn con cá “nằm ngửa phơi bụng ánh bạc của nó lên trời”. Biển đổi màu“bởi máu đỏ loang từ tim cá”, làn máu đen sẫm loang ra trong làn nước biếc sâu hơn ngàn thước, tựa đám mây. Trên mặt biển, “con cá trắng bạc và thẳng dơ và bồng bềnh theo sóng”.

Thành quả lao động đã nắm trong tay, trận đấu đã kết thúc, khi mặt trời đã xế trưa. Khát, đói và mệt rã rời. Lao chài phải lấy dây và thòng lọng buộc cá vào cái mấu đằng mũi thuyên, chuẩn bị dựng cột, giong thuyền trở về. Lão say sưa ngắm con cá kiếm: “Da cá chuyển từ màu gốc, màu tía ánh bạc, sang màu trắng bạc và những cái sọc phô cùng màu tím nhạt... còn mắt nó dửng dung như những tấm kính trong kính viễn vọng hay như một vị Thánh trong đám rước”.

2. Giờ đây, lão chài cảm thấy “khoẻ hơn”, đầu óc “tỉnh táo”. Lão nhìn con cá hơn nửa tấn, nhẩm số tiền bán cá sẽ thu được với giá ba mươi cend một pound. Lão vui sướng tự hào nghĩ “Di Maggio vĩ đại sẽ về ta hôm nay”. Còn có niềm vui sướng, hạnh phúc nào to lớn hơn niềm vui sướng hạnh phúc của lão chài khi chuẩn bị giong thuyền đưa cá về bến? Đó là cái giá và ý nghĩa của lao động.

Bữa cơm trưa của lão chài giữa biển khơi tuy đơn sơ mà ngon lành. Toàn đồ tươi sống của hương vị biển. Lão chài bắt vội được hơn mười con tôm nhỏ, lão “rứt đầu rồi nhai gọn cá vỏ lần đuôi”. Uống vài ngụm nước còn lại trong chai, lão cảm thấy thật dễ chịu. Lão nghĩ đến chuyện lấy nước mặn chữa lành đôi tay chảy máu. Nhìn đám mây tích và dải mây tơ, lao giong thuyên êm xuôi về bến trong làn gió nhẹ.

Nghệ thuật miêu tả và tự sự của Hê-minh-uê còn ít nhiều làm chúng ta “bỡ ngỡ” nhất là sự đan cài lời độc thoại, độc thoại nội tâm với lời kể. Qua đoạn trích, hình ảnh lão chài và con cá kiếm khổng lổ đã để lại cho ta nhiều ấn tượng sâu sắc. Lao động thật sự là bài ca của lòng kiên nhẫn và tinh thần dũng cảm. Lao động đem đến cho con người bao niềm vui giữa thiên nhiên và biển cả bao la. Chính cái giá của lao động mới làm cho chúng ta thấy rõ hơn ý nghĩa về hạnh phúc mà do bàn tay sáng tạo và lòng dũng cảm đem lại.

Các nhà lí luận thường nói đến “tảng băng trôi” ý nghĩa hàm ẩn trong tác phẩm của Hê-minh-uê. “Ông già và biển cả” đem đến vinh dự giải thưởng Pu-lit-ze (1953) cho tác giả, nó là một ẩn dụ ca ngợi ý chí, tính kiên nhẫn, sức mạnh và lòng dũng cảm của con người trong lao động và khám phá thiên nhiên. Nó đã khơi dậy trong lòng mỗi chúng ta bao ý nghĩ tốt đẹp về con người và lao động, về con người và thiên nhiên.

BÀI CÙNG NHÓM