Hê-minh-uê (1899 - 1961) văn hào Mỹ, được giải thưởng Nô-ben về văn chương năm 1954 đã từng viết: “Tôi rất thích văn học nước Nga... Trong các nhà văn hiện đại, tôi thích Sô-lô-khốp”. Là nhà văn Xô Viết được giải thưởng Nô-ben về văn học năm 1965, Sô-lô-khốp được ca ngợi là “một trong những nhà văn xuôi lớn nhất thế kỉ XX”.
“Đất vỡ hoang”, “Sông Đông êm đềm”,…và “Số phận con người” đã đem đến vinh quang cho Sô-lô-khốp. Truyện “Số phận con người” xuất hiện trên báo “Sự thật” vào cuối năm 1956. Hình ảnh nhân vật Xô-cô-lốp để lại trong lòng ta bao ám ảnh về số phận con người đầy bất hạnh thương đau. Qua số phận nhân vật này, ta cảm nhận sâu sắc nhiệt tình tố cáo thảm hoạ chiến tranh, mô tả chiến tranh trong bộ thật của nó, biểu dương khí phách anh hùng của người lính Xô viết, khám phá chiều sâu tính cách Nga bình dị, nhân ái - được thể hiện bằng một bút pháp nghệ thuật điêu luyện, độc đáo của nhà văn Sô-lô-khốp.
Đọc “Số phận con người”, ta vô cùng xúc động trước trang đời đầy nước mắt và máu của nhân vật Xô-cô-lốp. Năm 1941 phát xít Đức bất ngờ tấn công Liên Xô. Cùng với hàng triệu người Xô viết cầm vũ khí đứng lên, Xô-cô-lốp đã ra trận. Anh nếm trải những gian truân, thất bại buổi đầu. Hai lần bị thương vào chân vào tay. Rồi anh bị giặc bắt, bị đày đọa suốt hai năm trong nhiều trại tập trung. Sống bằng xúp lều bều lõng bõng, bánh mì lẫn mạt cưa, áo quần xơ xác, lao động khổ sai, người tù da bọc xương. Hàng trăm tù binh bỏ mạng. Tù binh Nga bị bọn phát xít đánh bằng thanh sắt, thanh gỗ, thanh củi, đánh bằng báng súng, đấm bằng tay, đạp bằng chân vô cùng dã man. Bộ chỉ huy trại dẫm vào mặt vào mũi tù binh cho hộc máu ra; chúng gọi đó là trò “phòng bệnh cúm”. Chúng “sáng tạo” ra mọi cách cực kỳ man rợ để đánh đập, bán giết tù binh. Đêm và ngày, lúc lao động khổ sai và lúc bị nhốt sau hàng rào dây thép gai, Xô-cô-lốp cũng như các tù binh khác bị cái chết bủa vây, bị tử thần rình rập.
Sau 5 năm chiến tranh, hơn 20 triệu người Xô viết bị chết, hàng ngàn thành phố, hàng vạn làng mạc bị bom đạn phát xít biến thành tro tàn. Gia đình Xô-cô-lốp gánh chịu bao mất mát đau thương. Vợ và 2 con gái bị giặc ném bom giết hại. Con trai, đại úy pháo binh A-na-tô-ni, niềm hy vọng cuối cùng, đã ngã xuống tại Bec-lin trong ngày chiến thắng bởi viên đạn bắn lén của một tên thiện xạ phát xít! Nỗi đau thương khủng khiếp làm cho Xô-cô-lôp “như người mất hồn”. Chiến tranh kết thúc, anh được giải ngũ nhưng không muốn về lại Vô-rô-ne-giơ quê hương vì đâu còn gia đình nữa! Bé Va-ni-a cũng là hiện thân cho thảm hoạ chiến tranh. Cha “chết ở mặt trận”. “Mẹ bị bom chết trên tàu hỏa khi mẹ con cháu đang đi tàu”. Bé cũng không biết, không nhớ từ đâu đến. Bà con thân thuộc “không còn ai cả”. Và chỉ biết “bạ đâu ngủ đó, ai cho gì ăn nấy!”. Áo quần em thì “rách bươm xơ mướp”; “mặt mũi bê hết nước dưa hấu, lem luốc bụi bặm, bẩn như ma lem ”...
Hình ảnh bé Va-ni-a cũng như cuộc đời của Xô-cô-lốp được tác giả miêu tả một cách chân thật, cảm động, thể hiện nhiệt tình tố cáo thảm hoạ chiến tranh, mô tả chiến tranh trong bộ mặt thật của nó. Cái giá của chiến thắng mà mọi dân tộc cũng như nhân dân Liên Xô trong chiến tranh thế giới thứ 2 giành được là cực kì khủng khiếp. Chỉ còn lại một phần ba số binh sĩ ra trận trở về, trong số đó có nhiêu người trên mình mang đầy thương tật. Sức khỏe sa sút, cạn kiệt. Khi chiến tranh đã đi qua, một năm sau đó, Xô-cô-lốp cảm thấy quả tim mình "đã rệu rã lắm rồi”. Nhiểu khi "tự nhiên nó nhói lên, thắt lại giữa ban ngày mà tối tăm mặt mũi”. Nhưng cái đau khố nhất mà bão tố chiến tranh đã gieo dắt cho con người không chỉ là mất mát, tang thương, điêu tàn... mà còn là những vết thương lòng rỉ máu, những ám ảnh kinh hoàng còn mãi trong kí ức, cứ siết chặt tâm hồn người thời hậu chiến! Bé Va-ni-a vốn hoạt bát có lúc lại "lặng thinh, tư lự”, có lúc lại "thở dài”. Cái áo bành tô da của bố ngày nào cứ bám riết lấy tâm hồn em như một ám ảnh không nguôi! Còn Xô-cô-lốp thì nỗi đau như vô tận "không ở lâu mãi một chỗ được”, nỗi buồn không bao giờ nguôi, "hai bố con cứ cuốc bộ khắp nước Nga”...Hầu như đêm nào anh cũng chiêm bao “thấy những người thân thuộc đã quá cố”, gặp vợ con sau hàng rào dây thép gai,...”ban ngày trấn tĩnh được, không hở ra một tiếng thở dài, một lời than vãn nhưng ban đêm thì gối ướt đẫm nước mắt...”. Xô-cô-lốp và bé Va-ni-a trở thành “côi cút, hai hạt cát đã bị sức mạnh phũ phàng của bão tổ chiến tranh thổi bạt tới những miền xa lạ…”.
Nhân vật Xô-cô- lốp là một con người Nga chân chính, tiêu biểu cho khí phách anh hùng của người lính Xô Viết trong cuộc chiến vệ quốc vĩ đại. Vốn là một nông dân rồi làm thợ mộc, lái xe. Một gia đình ổn định êm ấm: một vợ, ba con. Anh đã ra trận như hàng triệu công dân với ý thức "Tổ quốc hay là chết”. Hai lần bị thương vào chân và tay; vết thương lành, anh lại cầm súng đánh giặc; rồi bị bắt làm tù binh, lao động trong mưa, nắng, tuyết; bị đánh bằng báng súng, bằng thanh sắt, bằng gộc. Áo quần tả tơi, bánh mì lẫn mạt cưa, lưng bát súp lõng bõng. Anh đã đứng vững trước mọi thử thách ác liệt. Kiên quyết trừ khử tên phản bội đốn mạt! Hiên ngang trước mũi súng tên hung thần Muyn-le, chỉ huy trại tạp trung. Với đôi mắt bình thản, anh đã nhìn thẳng vào họng súng lục tên phát xít. Tự kiềm chế đói khát khi đứng trước bàn tiệc của lũ giặc. Đàng hoàng uống rượu, không chỉ uống một cốc mà còn uống nữa để mừng cái chết của mình chứ không phải để mừng chiến thắng quân xâm lược! Khí phách lẫm liệt của Xô-cô-lốp đã làm cho tên phát xít khát máu kinh ngạc, khâm phục nói:
"Mày là một thằng lính Nga chân chính. Tao cũng là lính và tao trọng những địch thủ có khí tiết. Tao sẽ không bắn mày nữa”. Tầm vóc của Xô-cô-lốp, của người lính Nga trong máu lửa được miêu tả một cách chân thực, làm cho truyện "Số phận con người” mang vẻ đẹp một "tiểu anh hùng ca”.
Qua nhân vật Xô-cô-lốp, tác giả khám phá ra chiều sâu tính cách Nga bình dị và nhân ái. Sau chiến tranh, anh vẫn nhớ hoài cái giây phút từ biệt vợ để ra trận, anh đẩy I-ri-na, khi chị cứ níu lấy anh, không thả... Bình dị trưóc biến cố trọng đại khi lịch sử đưa số phận anh lên "điểm tựa ” thử thách! Lửa chiến tranh đã tắt hơn một năm rồi, mà lòng Xô-cô-lốp mãi không nguôi đau. Anh đã tìm đến rượu, "uống một ly rượu lử người”, anh đã "quá say mê món nguy hại ấy”. Anh muốn quên đi bao mất mát đau thương và cô đơn...
Đang sống âm thầm trong bi kịch, tưởng không có lối thoát. Nhưng rồi tình cảm người cha, tình thương đồng loại đã thức dậy, làm cho vết thương lòng rỉ máu bấy nay như được mọc lên một lớp da non. Gặp bé Va-ni-a “đầu tóc rối bù, rách bươm xơ mướp ” sống bơ vơ nơi hiệu giải khát, “bạ đâu ngủ đó... ai cho gì ăn nấy”, nhất là khi anh thấy cặp mắt của em "như những ngôi sao sáng ngời sau mưa ”, Xô-cô-lốp thấy "thích nó” và “nhớ nó”, cố cho xe chạy thật nhanh để được về “gặp nó”. Anh đã quyết định: “không thể cho mình với nó chìm nghỉm riêng rẽ được! Mình sẽ nhận nó làm con!”. Một quyết định đầy nhân ái. Anh đã cứu bé Va-ni-a và anh đã tự cứu mình! Như có một phép thần biến cải: “ngay lúc đó tâm hồn tôi bỗng nhẹ nhõm và bừng sáng lên!”. Câu nói khẽ của Xô-cô-lốp; "là bố của con!” khi nghe bé Va-ni-a nghẹn ngào hỏi: “thế chú là ai? ”, một câu nói tưởng là bình dị nhưng đầy nước mắt, chứa đựng cả một biển trời thương mến mênh mông! Trước những cái hôn vào má, vào môi, vào trán, trước những cử chỉ yêu thương và tiếng nói ríu rít, líu lo của bé Va-ni-a: “bố yêu của con ơi!...Con chờ mãi mong được gặp bố...”, Xô-cô-lốp vô cùng xúc động: “Mắt tôi thì mờ đi, cả người cũng run lên, hai bàn tay lẩy bẩy...”.
Xô-cô-lốp đã nhận bé Va-ni-a làm con. Anh đã tắm rửa, đưa bé đi cắt tóc, may quần áo mới, săn sóc em. Hai linh hồn đau khổ tựa vào nhau làm cho nỗi mất mát, đau thương sau chiến tranh được dịu lại. Giấc ngủ được yên lành hơn: “Lần đầu tiên, sau bao nhiêu năm tôi được ngủ một giấc yên lành”. Còn bé Va-ni-a thì rúc vào nách bố nuôi “như con chim sẻ dưới mái rạ, ngáy khe khẽ…”. Hạnh phúc là san sẻ. Xô-cô-lốp lòng vui không tài nào tả xiết, đêm đêm thức dậy đánh diêm ngắm nhìn bé Va-ni-a ngủ ngon lành. Đời anh đã có một sự thay đổi kỳ diệu: “trái tim đã suy kiệt, đã chai sạn vì đau khổ, nay trở nên êm dịu hơn”.
Vết thương lòng đâu dễ nguôi. Vì thế mà Xô-cô-lốp phải cõng đứa con nuôi bé bỏng đi khắp nước Nga. Chí đến một lúc nào đó, bé Va-ni-a lớn lên vào học một trường ổn định thì Xô-cô-lốp “mới có thể ở yên một chỗ”. Anh đang chịu đựng và vượt qua số phận bằng tình thương của người bố đối với đứa con.
Cuộc gặp bất chợt với “hai con người côi cút” và câu chuyện đau lòng của họ đã để lại trong lòng tác giả bao nồi buồn thấm thía, nhưng Sồ-lố-khốp vẫn tin vào dũng khí và lòng nhân ái của người Nga, vẫn tin vào tương lai, dù cho bão tố chiến tranh có thổi bạt họ tới những miền xa lạ: “Cái gì đang chờ đón họ ở phía trước? Thiết nghĩ rằng con người Nga đó, con người có ý chí kiên cường sẽ đứng vững được và sống bên bố, chú bé kia một khi lớn lên sẽ có thể đương đầu với mọi thử thách, sẽ vượt qua mọi chướng ngại trên đường, nếu như Tổ quốc kêu gọi”.
Truyện “Số phận con người” có kết cấu “truyền lồng trong truyện” - đã tô đậm những đau khổ, những phẩm chất cao đẹp của nhân vật Xô-cô-lốp, khắc hoạ đậm nét tính cách và tâm hồn Nga, đem đến cho người đọc bao xúc động thấm thía về số phận con người trong chiến tranh và thời hậu chiến.
Với những chi tiết, tình tiết rất sống, rất điển hình và chân thực, tác giả đã mô tả bộ mặt thật của chiến tranh, ca ngợi người lao động bình thường trong cuộc đời, anh binh nhì trong máu lửa, người cha trong cuộc sống phức tạp, nhiều khó khăn thời kỳ sau chiến tranh. Qua nhân vật Xô-cô-lốp, người đọc cảm nhận được những ý tưởng sâu sắc mà Sô-lô-khốp gửi gắm qua kiệt tác này: Với lòng dũng cảm mà con người vượt qua những thách thức chiến tranh; với lòng nhân ái có thể làm dịu bớt buồn đau mà chiến tranh reo rắc, để lại. Đoạn trữ tình ngoại đề làm cho cảm hứng nhân đạo thêm lung linh chói sáng.
Nhân dân Việt Nam vừa trải qua 30 năm chiến tranh. Hình ảnh Xô-cô-lốp rất gần gũi với mỗi chúng ta. Nhân vật này rất sống, rất đáng thương nhưng vô cùng cao đẹp xứng đáng được mọi người yêu mến, cảm phục. Khát vọng hòa bình, được sống yên vui trong ấm no hạnh phúc và tình thương là khát vọng đẹp muôn đời của nhân loại.