Văn mẫu lớp 9: Cố Hương

I. Giới thiệu một vài nét về Lỗ Tân và chủ đề truyện “Cố hương”.

1. Tác giả

Tên thật là Chu Thụ Nhân, tên chữ là Dự Tài, bút danh là Lỗ Tấn. Ông sinh năm 1881 và mất năm 1936. Quê ở Chiết Giang, sinh trưởng trong một gia đình quan lại đã thất thế.

Thuở nhỏ học rất giỏi, được tuyển chọn sang Nhật học đại học. Học hàng hải rồi học địa chất, sau chuyển sang y học. Cuối cùng ông bỏ học và chuyển sang viết văn với ý định sâu xa lấy văn nghệ làm vũ khí để nâng cao tinh thần dân tộc.

Về nước, ông vừa viết văn vừa giảng dạy đại học. Lúc đầu dạy Đại học Bắc Kinh; 1926 làm giáo sư văn học Hạ Môn; 1927 dạy Đại học Tồn Trung Sơn tại Quảng Châu, cuối năm đó ông đến Thượng Hải họat động văn nghệ. Lỗ Tấn đã sông gần gũi với những người cần lao, đã “bú được sữa sói rừng” mà lớn lên, dần dần trở thành “đứa con bất hiếu” của gia tộc phong kiến, là “kẻ tôi hai lòng” của giai cấp thân sĩ. Ông là nhà văn cách mạng nổi tiếng của Trung Quốc. Năm 1936 ông qua đời tại Thượng Hải, quan tài ông được phủ một lá cờ thêu 3 chữ “Dân tộc hồn”, có hàng nghìn người đi đưa tang ông. Ông có hai câu thơ được người đời truyền tụng:

“Trợn mắt coi khinh nghìn lực sĩ,

Cúi đầu làm ngựa đứa nhi đồng”.

2. Chủ đề

Qua truyện “Cố hương”, tác giả nhắc lại một số kí ức về cảnh vật và con người nơi quê cha đất tổ, gợi lên bao tâm trạng buồn thương của người đi xa mới trỏ về thăm quê nhà, đồng thời nói lên những suy nghĩ về “con đường”: đường của số phận con người, con đường của dân tộc, đất nước.

II. Tóm tắt truyện “Cố hương”.

Sau 20 năm trời đi xa, tôi phải vượt qua hai nghìn dặm về thăm quê. Đang độ giữa đông, trời lạnh giá. Gió lùa khoang thuyền vi vu. Gần về đến làng cũ trời càng u ám, xa gần thấp thoáng xóm thôn tiêu điều, hoang vắng,... im lìm nằm dưới vòm trời vàng úa. Lòng tôi se lại.

Có phải là làng cũ tôi không? Làng cũ tôi đẹp hơn kia! về thăm chuyên này, lòng mình vốn không vui, nên tôi mới thấy thê lương như vậy. về thăm chuyên này là để từ giã ngôi nhà cũ nơi cả đại gia đình chúng tôi đã mây đời ở chung với nhau. Ngôi nhà cũ đã bán cho người ta rồi, tôi từ giã làng cũ thân yêu đem gia đình đến sinh sông nơi đất khách quê người.

Tinh mơ sáng hôm sau, tôi về tới cổng nhà. Tôi vừa bước vào gian nhà cũ yêu dấu thì mẹ tôi và cháu Hoàng mới lên 8 tuổi chạy ra đón. Mẹ tôi mừng rỡ, nhưng nét mặt vẫn ẩn một nỗi buồn thầm kín. Mẹ bảo tôi ngồi xuống nghỉ ngơi, uống trà. Cháu Hoàng đứng đằng xa, nhìn tôi chòng chọc.

Sau đó, mẹ và tôi bàn đến chuyện dọn nhà, bán đồ đạc. Mẹ nhắc tôi nghỉ ngơi vài hôm rồi đi thăm bà con trước lúc lên đường. Mẹ nhắc đến anh Nhuận Thổ, quê ở vùng biển. Tôi bồi hồi nhớ lại cách đây khoảng chừng 30 năm, tháng giêng năm ấy đến lượt nhà tôi lo giỗ tổ. Giỗ to, lễ vật nhiều, đồ tế rất sang, người đến lễ rất đông. Người ở quá bận, xin thầy tôi cho gọi thằng con là Nhuận Thổ đến để nó trông coi các thứ đồ tế cho.

Gần Tết thì Nhuận Thổ đến. Đã bao ngày đêm tôi mong vì nghe nói hắn bẫy chim sẻ tài lắm. Hắn đứng trong bếp, khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên bé tí tẹo, cổ đeo vòng bạc sáng loáng. Hắn bẽn lẽn. Khi vắng người, hắn nói chuyện với tôi. Chỉ nửa ngày, chúng tôi đã thân nhau. Hắn bảo lên tỉnh, hắn được trông thây bao nhiêu điều mới lạ. Hôm sau, tôi rủ Nhuận Thổ đi bẫy chim. Hắn bảo phải chờ tuyết xuống mới bẫy chim được. Hắn nói với tôi bẫy chim: sẻ đồng, chào mào, “bột cô”, sẻ xanh lưng...

Nhuận Thổ mời fôi đến mùa hè xuống chơi vùng biển, quê hắn, đi nhặt vỏ sò, màu đỏ có, màu xanh có, đủ cả. Còn có cả sò “mặt quỷ”,“tay phật” lạ lắm. Hắn kể chuyện những đêm trăng đi canh dưa hâu, cầm đinh ba để đâm con “tra”, con vật này ăn dưa, tinh khôn lắm, lông và da trơn như mỡ. Hắn kể chuyện vùng biển, hắn biết nhiều chuyện lạ lùng lắm mà bạn bè tôi không ai biết cả. Hết tháng giêng năm ấy, Nhuận Thổ về quê. Sau đó hắn gửi cho tôi một bọc vỏ sò và mấy thứ lông chim rất đẹp. Tôi cũng có vài lần gửi cho hắn ít quà. Nhưng từ đấy chúng tôi không hề gặp nhau nữa. Bây giờ nghe mẹ tôi nhắc đến, kí ức tôi bỗng sáng bừng lên trong chóc lát, tôi cảm thấy tìm được quê hương tôi đẹp ở chỗ nào rồi. Tôi hỏi mẹ về Nhuận Thổ hiện nay, mẹ bảo tình cảnh anh ta cũng chẳng ra gì.

Đang dở câu chuyện thì thím Ba Dương đến, một người đàn bà trên dưới 50 tuổi, môi mỏng dính, lưỡng quyền nhô ra... Tôi không nhận ra được, một lúc sau nghe mẹ tôi nói là thím Ba Dương bán đậu phụ ở xế cửa nhà tôi; hồi đó, người ta vẫn gọi là “nàng Tây Thi đậu phụ”. Thím ta trách tôi, khích bác tôi là bây giờ làm quan, có nàng hầu, đã giàu có lại không dám rời một đồng xu. Cuối cùng thím Ba Dương giật đôi bít tất tay của mẹ tôi, rồi quay gót, cút thẳng.

Sau 3, 4 ngày vừa tiếp khách đến thăm vừa sửa soạn hành lí, một hôm trời rét lắm, vào lúc quá trưa, Nhuận Thổ đến. Tôi nhận ra ngay, nhưng không phải là Nhuận Thổ trong kí ức tôi. Mặt vàng xạm, thêm những nếp nhăn sâu hóm, mi mắt viền đỏ húp mọng lên. Anh đội một cái mũ lông chiên rách tươm, mặc một chiếc áo bông mỏng dính, người co ro cúm rúm. Bàn tay thô kệch, nặng nề, nứt nẻ như vỏ cây thông. Lâu ngày gặp tôi, anh “vừa hớn hở vừa thê lương”, mấp máy mãi rồi cung kính chào: “Bẩm ông!”. Tôi điếng người đi. Giữa chúng tôi đã có một bức tường ngăn cách. Thật là bi đát, tôi cũng nói không nên lời. Tiếp đó, Nhuận Thổ gọi một đứa bé lại và bảo: “Thủy Sinh. Con không lạy ông đi kia!”. Mẹ tôi và cháu Hoàng từ trên gác nghe tiếng đi xuống. Nhuận Thổ cung kính chào mẹ tôi, rồi nói: "... biết ông về chơi, thật mừng quá!”. Mẹ tôi nhẹ nhàng bảo: “Sao lại khách tình thế, trước kia vẫn gọi nhau bằng anh em cơ mà'?...”. Thủy Sinh rụt rè nhưng sau đó đã chơi thân với cháu Hoàng.

Mẹ tội và tôi hỏi thăm gia đình Nhuận Thổ. Anh than thở: “Bẩm, vất vả lắm! Nhà vẫn không đủ ăn, lại có được sống yên ổn đâu! Chỗ nào cũng hỏi tiền, chẳng có luật lệ gì cả. Mùa lại mất...”. Trông anh phảng phất như một pho tượng đá. Anh xuống bếp rang cơm ăn. Mẹ tôi và tôi đều cám cảnh cho gia đình anh: con đông, mùa mất, thuế nặng, lính tráng, trộm cướp, quan lại, thân hào đày đọa thân anh khiến anh trở thành đần độn, mụ mẫm đi! Mẹ tôi bảo tôi: cái gì không cần chở đi thì cho anh ta hết, tùy ý chọn lấy cái nào thì lấy. Anh chọn xin mấy thứ: hai cái bàn dài, một bộ tam sự, một cái cân, xin một đông tro để về bón ruộng.
Chín ngày sau, chúng tôi lên đường. Khách đến tiễn và lấy đồ rất đông. Gần tối, chúng tôi xuống thuyền thì tất cả đồ đạc trong ngôi nhà cũ, hư hỏng, to nhỏ, xấu tốt đều mang đi sạch trơn như quét. Ngồi tựa mạn thuyền, bỗng cháu Hoàng hỏi bao giờ trở về vì Thủy Sinh đã hẹn đến nhà nó chơi. Mẹ tôi buồn khi nhắc đến Nhuận Thổ, nhắc đến chị Hai Dương lùn, chân bé tí tẹo thế mà cùng chạy nhanh đáo để.

Ngôi nhà cũ xa dần, phong cảnh làng cũ cũng mờ dần. Lòng tôi ảo não.

Nằm trong thuyền nghe nước chảy róc rách vỗ vào mạn thuyền, biết là tôi đang đi theo con đường của tôi. Tôi nghĩ đến Nhuận Thổ, đến Thủy Sinh và cháu Hoàng. Tôi nghĩ đến mọi “thứ tượng gỗ”, mọi hi vọng, đâu là thực là hư. Nghĩ đến những con đường trên mặt đất; kì thực trên mặt đất vốn làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi.

III. Phân tích nhân vật Nhuận Thổ trong truyện ngắn "Cố hương" của văn hào Lỗ Tân.

“Cố hương” là một truyện ngắn tiêu biểu trong những truyện ngắn xuất sắc của Lỗ Tân về nông thôn Trung Quốc. Câu chuyện là kí ức về miền quê yêu dãu của tác giả. Trong một chuyến về quê, ông nhận thấy làng quê, người thân và bạn bè đều đổi khác. Nhuận Thổ, người bạn niên thiếu là nhân vật có nhiều biến đổi rõ nhất khiến tác giả rất đỗi ngạc nhiên.: “Người đi vào là Nhuận Thổ. Tuy tôi nhận ra ngay là Nhuận Thổ, nhưng lại không phải là Nhuận Thổ trong kí ức tôi.”
Đúng vậy, Nhuận Thổ đã thay đổi rất nhiều. Nhuận Thổ trong kí ức là một cậu bé khỏe mạnh, lanh lợi. Còn Nhuận Thổ bây giờ là một nông dân thực thụ, đông con, làm lụng vất vả, người co ro cúm rúm. Trong thời trẻ, Nhuận Thổ là một cậu bé đẹp, khỏe mạnh, họat bát, lanh lợi. Mười tuổi, chú bé có “khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật, đầu đội mủ lông chiên bé tí tẹo, cổ đeo vòng bạc sáng loáng”. Tuy ít tuổi, nhưng sống cuộc sông của-làng quê, Nhuận Thổ tháo vát và hiểu biết rất nhiều điều. Nhuận Thổ biết cách bẫy chim khi tuyết xuống “quét lấy một khoảng đất trống, dùng một cái que ngắn chông một cái nong lớn, rắc ít lúa lép, thấy chim tước xuống ăn, đứng đàng xa giật mạnh”. Nhuận Thổ hiểu rất nhiều các loại sò khác nhau, nào sò “mặt quỷ”,“tay Phật”. Nhuận Thổ giúp bô' đi canh dưa, đuổi lợn rừng, nhím, tra,... Tân phải thốt lên đầy khâm phục: “Trời! Nhuận Thổ hắn biết nhiều chuyện lạ lùng lắm, kể không xiết”. Dường nhự lúc nào người đọc cũng bắt gặp ở Nhuận Thổ vẻ .hào hứng, sự am hiểu cũng như tính sôi nổi, hồn nhiên. Hình ảnh Nhuận Thổ cổ đeo vòng bạc, tay lãm lăm chiếc đinh ba đang cố sức đâm theo một con “tra” giữa ruộng dưa trong một đêm trăng tuyệt đẹp in sâu trong tâm trí tác giả. Một chú bé khỏe mạnh, tháo vát, đáng yêu như Nhuận Thổ chắc sẽ có một tương lai tươi sáng. Nhưng cuộc đời cậu lại trái ngược với những hứa hẹn đó. Sau những năm tháng cách xa, chú bé Nhuận Thổ mặt tròn, da ngăm giờ đây không còn nữa. Thay vào đó là hình ảnh một người đàn ông khuôn mặt vàng xạm vì sương gió, một con người chậm chạp, nặng nề và đờ đẫn. Những nét khỏe mạnh, đẹp đẽ trước đều được thay băng những nét tàn tạ, hãn sâu vất vả. “Cặp mắt giống hệt cặp mắt bố anh ngày trước, mi mắt viền đỏ húp mọng lên”. Mũ lông chiên ngày xưa lành lặn, xinh xắn thì nay “anh dội một cái mủ lông chiên rách tươm”. Trước kia anh ăn mặc gọn ghẽ, tư thế hiên ngang thì bây giờ đây anh “mặc một chiếc áo bông mỏng dính, người co ro cúm rúm”. Tác giả tiếp tục so sánh những nét thay đổi mà trở nên “vừa thô kệch, vừa nặng nề nứt nể như vỏ cây thông”.

Nhuận Thổ đã thay đổi rất nhiều vì thế mới “không phải là Nhuận Thổ trong kí ức” của nhân vật Tấn. Không chỉ thay đổi bề ngoài mà tâm hồn của Nhuận Thổ cũng thay đổi quá nhiều. Trước kia Nhuận Thổ hồn nhiên mạnh dạn thì nay anh rụt rè, e ngại. Được gặp lại. bạn, anh rất vui mừng, rất muôn được vô tư nói chuyện cười đùa như ngày xưa. Nhưng có một cái hố đã ngăn cách hai người. Đó chính là sự phân biệt địa vị xã hội. Họ đã xa cách nhau quá nhiều, đã thành người trên kẻ dưới. Người bạn ấu thơ nay trở thành người trí thức ở tầng lớp khác - tầng lớp “quan lại” có địa vị trong xã hội. Vì lí do đó mà anh thấy cần thay đổi cách xưng hô: “Nhuận Thổ đứng dừng lại, nét mặt vừa hớn hở vừa thê lương, môi mấp máy, nhưng cũng không nói ra tiếng. Rồi bỗng anh lấy một dáng điệu cung kính, chào rất rành mạch: - Bẩm ông!”. Không phải là anh khách khí. Trước thực tế phũ phàng, Nhuận Thổ không thể vô tư như khi còn nhỏ dại. Ớ đây người đọc thấy rõ vẻ mặt đầy mệt mỏi, cam chịu sô' phận của Nhuận Thổ. Trong cả cuộc nói chuyện, anh chỉ “bẩm” với “thưa”. Anh chĩ biết lắc đầu chán nản khi nói về nỗi khổ bấy lâu nay. Anh không dám nói nhiều, khi không được hỏi anh chỉ còn biết trầm ngâm hút thuốc. Cuộc sống quá khổ cực ở một miền quê biển không chỉ khiến anh tiều tụy ghê gớm mà còn thay đổi cả tinh thần, ý nghĩ của anh, “anh trở thành đần độn, mụ mẫm đi”.

Tuy có nhiều nét thay đổi lớn nhưng Nhuận Thổ vẫn là một nông dân thuần phác, tốt bụng. Dường như vẫn còn một chút gì đó của hình ảnh cậu bé năm nào đọng lại trong anh. vẫn như ngày nào anh đội mũ lông chiên (có phải năm tháng đã làm cho nó rách bươm?), anh không khách khí, vui vẻ tự mình xuống bếp rang cơm ăn. Và đặc biệt hơn cả anh vẫn dành tình cảm chân thành với gia đình Tấn. Anh gọi con đến chào, anh tặng quà cho bạn: món đậu xanh phơi khô “cây nhà lá vườn”. Vẫn biết tình thế và địa vị có thay đổi, nhưng tình cảm của anh với gia đình Têm vẫn chân thành không đổi khác. Nhà văn Lỗ Tấn đã dành cho Nhuận Thổ tất cả những tình cảm yêu mến và thương xót của mình, đã thể hiện một cách sống động, chân thực và khắc khổ về anh. Nhuận Thổ là hình ảnh tiêu biểu cho những người nóng dân đang phải sống bần cùng dưới sự áp bức bóc lột dã man của chế độ phong kiến Trung Quốc thời bấy giờ. Anh sống khốn khổ nhưng rất chân tình với bạn bè khiến ai cũng thương cảm.

Nguyễn Minh Ngọc, lớp 8A Trường PTCS Lê Ngọc Hân, Hà Nội.

IV. Phân tích nhân vật “tôi” (Tấn) - người kể chuyện trong truyện "Cố hương" của Lỗ Tấn.

Trong truyện “Cố hương” củã Lỗ Tấn, người đứng ra kể chuyện, vẫn xưng là tôi, cũng có tên là Tấn. Chuyến về thăm làng cũ của anh sau hơn hai mươi năm xa cách làm xáo động trong anh biết bao điều suy nghĩ: khi buồn, khi thất vọng hoặc mơ ước xa xôi...

Trên đường về quê cũ, ngồi trên thuyền, khi gần tới nơi, Tấn thấy xa xa “thấp thoáng mấy thôn xóm tiêu điều hoang vắng nằm im lim dưới vòm trời màu vàng úa” trong anh dấy lên sự xúc động. Lòng anh “se lại”. Anh vừa ngạc nhiên vừa buồn bã. Buồn vì thấy làng quê củá anh nay xơ xác, tiêu điều. Từ trong đáy lòng bật lên câu hỏi ngỡ ngàng: “A, đây thật có phải là làng cũ mà hai mươi năm trời nay tôi hằng ghi lấy hình ảnh trong kí ức không?”. Bởi vì mấy chục năm qua, tuy đã cách xa những “hai ngàn dặm” anh vẫn hằng nhớ về quê hương, vẫn mang trong lòng những dấu ấn đẹp đẽ về nơi làng cũ, mặc dù nếu có người hỏi làng anh đẹp thế nào thì anh cũng không tả nổi.

Anh tự đặt ra câu hỏi rồi lại tự trả lời “Hẳn làng củ của mình vốn chỉ như thế kia thôi, tuy chưa tiến bộ hơn xưa nhưng cũng vị tất đến nỗi thê lương như mình tưởng. ”, Anh tự trấn an mình có lẽ mình buồn nên không thấy được vẻ đẹp của làng, bởi “tâm tính mình đã đổi khác” hay “lòng mình vốn đã không vui” vì đây là chuyên về để “vĩnh biệt ngôi nhà yêu dấu và từ giã làng cũ thân yêu...".

Ớ lại quê chín ngày cùng bà mẹ và đứa cháu nhỏ để bán đồ đạc, thu xếp tiền nong và từ biệt bà con, Tân như nhận ra dần dần cái đượm buồn của mình trên đường về là có nguyên cớ. Nỗi buồn như có linh tính báo trước chăng?

Không! Rõ ràng mọi chuyện xảy ra đều là sự thực cả. Chung quanh nhà anh, một số gia đình khác “có lẽ đã dọn đi rồi cho nên cảnh tượng càng hiu quạnh”. Lần này anh về để giã biệt quê hương nên mẹ anh có biên thư cho Nhuận Thổ đến gặp.

Nhuận Thổ là người bạn của anh thuở tuổi lên mười. Hình ảnh Nhuận Thổ suốt hai mươi năm qua vẫn luôn luôn sáng đẹp trong tâm hồn anh: người bạn cùng lứa tuổi đã kể cho anh nghe biết bao chuyện lí thú: bẫy chim, bắt cá, canh dưa và nhặt vỏ sò trên bãi biển...

Giây phút hai người gặp nhau cũng đầy xúc động, Tấn mừng rỡ chào hỏi ngay:

- A, anh Nhuận Thổ, anh đã đến đấy à! - Nhuận Thổ đứng dừng lại “néí mặt vừa hớn hở vừa thê lương, môi mấp máy nói không ra lời.”

Tấn cũng như “có cái gì chẹn lại”, “không thốt ra thành lời được”. Rồi bỗng Nhuận Thổ’ lấy một dáng điệu cung kính chào rất rành mạch:

- Bẩm ông.

Tấn như “điếng người đi”. Thôi đúng rồi: “giữa chúng tôi đã cồ một bức tường khá dày ngăn cách. Thật là bi đát.”. Tấn buồn bã nhìn người bạn thân thuở nhỏ đang đứng trước mặt mình. Khuôn mặt “vàng xạm”“những nếp nhăn sâu hóm” đầu đội mũ rách tươm, người co ro cúm rúm...
Rồi Nhuận Thổ gọi con: “Thủy Sinh, con không lạy ông đi kìa!” và suốt từ đó về sau, nói chuyện với Tấn, Nhuận Thổ chỉ toàn “thưa” với “bẩm”. Đến hỏi chuyên gia đình, nỗi khổ của Nhuận Thổ hiện rõ trên nét mặt. Nhìn bạn ngồi trầm ngâm, lặng lẽ hút thuốc, Tấn càng buồn và nuối tiếc hình ảnh đẹp đẽ của Nhuận Thố khi xưa...

Ôi! Còn đâu là hình ảnh chú. bé oai hùng cầm chiếc đinh ba xốc tới đâm con “tra” để bảo vệ ruộng dưa trên bãi biển, giữa một đêm trăng sáng! Còn đâu gương mặt tròn trĩnh với nước da bánh mật phản chiếu ánh sáng lấp lánh của chiếc vòng bạc đeo nơi cổ chú Nhuận Thổ thông minh, nhanh nhẹn...
Càng nhớ về dĩ vãng đẹp đẽ, kí ức Tân bỗng như “bừng sáng lèn trong chốc lát” và anh càng nhận rõ những dâu hiệu đã bao lâu nay thầm nhắc anh nhớ về cố hương. Quê hương đẹp đẽ với bao nhiêu kỉ niệm tuổi thơ! Thế mà bây giờ... bao nhiêu thay đổi! Cái vẻ tiêu điều bên ngoài mà anh cảm thây hôm trước trên đường về nay được xác thực bằng những sự sa sút bên trong. Mẹ Tấn và Tấn đều than thở, buồn cho cảnh nhà Nhuận Thổ, con đông, mùa mất, thuế nặng, lính tráng, trộm cướp, quan lại thân hào đầy đọa thân anh khiến anh trở thành đần độn, mụ mẫm đi! Không chỉ qua hoàn cảnh Nhuận Thổ mà ở những người khác cũng cỗi cằn đi mỗi người một vẻ, cả đời sống vật chất lẫn tinh thần.

“Nàng Tây Thi đậu phụ” ngày xưa đã từng bế Tân hồi nhỏ nay gặp lại cũng “lấy làm bất bình lắm”. Chị cười khẩy mà bảo:\

- Quên à? Phải bây giờ cao sang rồi thì đâu để ý đến bọn chúng tôi nữa?

Tân nghe câu ấy bỗng “hoảng hốt” thanh minh:

- Đâu có phải thế! Tôi...

Nhưng anh không nói được thêm nữa. Anh chỉ “trầm ngâm” suy nghĩ về cái bức tường vô hình ngăn cách giữa đôi bên.

Lần này Tấn sống chín ngày ở quê trong bận rộn và không lấy gì làm vui. Lòng anh chỉ nặng thêm những điều suy nghĩ.

Hôm ra đi, ngồi trên thuyền, nghe cháu Hoàng kể chuyện Thủy Sinh hẹn về chơi, Tấn lại nhớ đến tình bạn ngày xưa giữa anh và Nhuận Thổ, sao nó giống tình bạn giữa Hoàng và Thủy Sinh bây giờ đến thế. Tấn lại miên man suy nghĩ: “Tôi và Nhuận Thổ tuy cách bức đến thế này nhưng con cháu chúng tôi vẫn còn thân thiết với nhau... Tôi mong ước chúng nó sẽ không giống chúng tôi, không bao giờ, phải cách bức nhau cả. Nhưng tôi củng không muốn chúng nó phải vất vả chạy vạy như tôi, cũng không khốn khổ như Nhuận Thổ... Chúng nó cần phải sống một cuộc đời mới, một cuộc dời mà chúng tôi chưa hề được sống”. Tấn nghĩ đến “Những niềm hi vọng" mặc dù có lúc anh thấy “hoảng sợ” trước những điều trói buộc của xã hội, thẩm quyền... “Đã gọi là hi vọng thì không thể nói đâu là thực đâu là hư... Cũng giống như những con đường trên mặt đất; kì thực trên mặt đất làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi". Anh tin ở khả năng cải tạo xã hội của thế hệ con cháu anh. Một lần trở lại cố hương đã nhen lên trong lòng Tấn bao nỗi suy tư, từ buồn bã đến day dứt, cảm thấy đau khổ, bi đát rồi lại nhen nhóm lên hi vọng trong lòng... Tất cả đều xuất phát từ lòng yêu mến quê hương của anh. Nói cách khác: buồn, đau mong ước... đều là những biểu hiện khác nhau về lòng yêu mến quê hương của Tấn, một con người luôn mong much cho mọi người được ấm no, bình đẳng.

BÀI CÙNG NHÓM