Trong lịch sử văn học nghệ thuật Việt Nam, nhiều địa danh của đất nước đă trở thành những để tài hấp dẫn vì đã ghi dấu những chiến công vĩ đại như Hàm Tử, Chi Lăng, Đống Đa, Sông Lô v.v... Nhưng gợi nhiều cảm hứng nhất có lẽ phải kể đến sông Bạch Đằng lịch sử - nơi đã từng diễn ra những trận đánh quyết liệt chồng quân xâm lược phương Bắc. Tại đây, Ngô Quyển đã đánh thắng quân Nam Hán, Lê Hoàn quét sạch quân nhà Tống; Trần Hưng Đạo nhấn chìm đại quân Nguyên Mông. Bởi thế, chỉ nói riêng trong lịch sử văn học thời trung đại có nhiều cây bút tên tuổi như Trần Minh Tông, Trương Hán Siêu, Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân... đều viết về nó. Nhưng thành công hơn cả là Trương Hán Siêu với Bài phú sông Bạch Đằng. Tác phẩm này từ lâu đã được đánh giá là bài phú nổi tiếng nhất ở đời Trần và cũng là một trong số ít bài phú xuất sắc nhất của văn học trung đại.
Đây là một bài phú có thể (hoặc còn gọi là phú lưu thủy), không tuân theo niêm luật chặt chẽ của Dường phú (hay còn gọi là phú Đường luật). Vắn luật của bài phủ loại này tương đối phong khoáng, giàu nhạc điệu và dễ truvền tụng
Bài phú sông Bạch Dàng có thể chia làm ba đoạn :
1 ) Niềm vui thích du ngoạn, nhất là du ngoạn trên sông Bạch Đằng;
2) Thuật lại chiến công trên sông Bạch Đằng của cha ông xưa;
3) Bài hát rút ra từ chiến công trên dòng sông lịch sử này.
Trong một bài phú, thông thường tác giả hay hư cấu thêm một sô nhân vật để đối đáp, tranh luận với mình. Điểu đã góp phần làm cho bài phú sinh động hấp dẫn hơn, nhờ có sự đan xen của những câu đối thoại, những câu bàn bạc: Khi thì bổ sung, khi thì bác bỏ ý kiến ban đầu. Ở Bài phú sông Bạch Đằng có những nhân vật như: khách, ta, bô lão. Thực chất, đấy chính là sự phân thân của chính tác giả, trong một thủ pháp nghệ thuật của bài phú.
Dưới đây sẽ phân tích bài phú theo cách chia đoạn nói ở trên
Trong văn chương trung đại, thiên nhiên được miêu tả khá nhiêu Các nhà văn, nhà thơ tìm đến thiên nhiên trong những tâm trạng khác nhau. Cao Bá Quát, đến với thiên nhiên để bộc lộ tâm trạng chua xót bất đác chí. Nguyễn Bỉnh Khiêm thì đối với thiên nhiên để bày tô đạo lý thanh cao trước thói đời bon chen danh lợi... ở Bai phú sông Bạch Dòng, Trương Hán Siêu đã tìm đến thiên nhiên trong một tâm trạng khác. Mò đầu bài phú, nhà thơ đưa người đọc vào một thế giới hùng vỉ, bao la của những Cửu Giang, Ngũ Hổ, Tam Ngô, Bách Việt là những nơi "khách” đã từng đi qua, khách tô ra là một con người có tâm hỗn phóng khoáng, tự do:
Giương buồm giong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mải miết.
Sớm gõ thuyền chữ Nguyên Tương,
Chiêu lần thăm chư Vũ Huyệt.
Khách cũng là một con người đi nhiều, biết rộng:
Đảm Vân Mộng chứa vài tròm trong dạ củng nhiều,
Mà tráng chí bón phương vân còn tha thiết.
Di nhiêu, biết nhiêu, nhưng trong thú tiêu dao, "khách" chỉ học có Tử Trường, tức là Tư Mã Thiên, nhà sử học nổi tiếng Trung Quốc, từng chu du kháp đất Trung Hoa rộng lớn trước khi viết bộ Sù hỉ bất hủ bh/ii Chẳng "khách” noi đến Tử Trường đế tô bày tám Hồn đóng điệu của mình với người xưa Đi xa, đâu phải chi đê tiêu dao, ngám hoa vọng nguyệt, mà quan trong hơn là tìm đến nơi cha ông ta đã lập chiến công to lớn đã làm vê vang cho lịch sử để chiêm ngưỡng, ngợi ca và suy ngẫm.
Điéu này, chứng tô tư thế vị khách thật cao đẹp, chí khí thật hào hùng Người đọc có thể nhận thấy vẻ đẹp áy trong chính lời kể đầy tự hào của khách. Khách nhắc tới nhiều địa danh quen thuộc trong sách vở Tàu, chủng cách xa nhau hàng ngàn dậm, làm sao có thể đi được trong một sớm, một chiếu (Sớm gõ thuyên chữ Nguyên Tương - Chiều làn thâm chữ Vú Huyệt - Cửu Giang, Ngũ Hồ - Tam Ngô, Bàch Việt). Đấy chỉ là cách phố diễn ý tưởng có tính chất ước lệ mà thối Diếu quan trong là nó đã đưa đến cho người đọc ấn tượng khá rõ về nhưng khung cảnh thiên nhiên rộng lớn, góp phẩn thể hiện niềm ham thích tự do, phóng khoáng của nhân vật "khách". Cảm hứng về cuộc viễn du mở đầu bài phú, thực ra chỉ là sự chuẩn bị một không khí thlch hợp trước khi đi vào thế giới hùng vĩ của sông Bạch Đàng lịch sử
Ấn tượng đầu tiên mà Trương Hán Siêu đưa đến cho người đọc là sự bề thế rộng lớn và sức sống bền bỉ muôn đời của Bạch Đàng giang. Con sổng này thật hùng vĩ, bởi rộng "bát ngát" và dài "muôn dặm". Nhu vậy nó không những là đại giang và còn là trường giang (Bát ngát sóng kinh muôn dậm), với bao lớp sóng lớn trùng điệp. Điều đáng lưu ý là ngoài về thiêng liêng hùng vỉ, dòng Bạch Dằng còn cò nót thật dịu dàng, duyên dáng và thơ mộng: những con thuyến nối ‘đuôi nhau trôi bập bềnh trên sông; đã cuối thu rôi nên nước xanh, trời xanh; hai bên bờ lau lách xào xạc, đìu hiu...
Trước cảnh sông nước hùng vĩ và thơ mộng ấy, tác giả cảm thấy vui buôn lẫn lộn. Đây là chiến trường ác liệt xưa kia, ta tháng lớn, nhưng kể sao cho hết những hi sinh mất mát vói bao "giáo gẫy, xương khồ". 'Trời nước", "lau lách" như gợi lại chuyện cũa, khiến người hồm nay không tránh khỏi động lòng tiếc nuối, xót. thương cho bao "anh hùng" đà khuất. Ớ đoạn thơ này, ta thấy một. nỗi buổn cao đẹp qua những câu thư có âm hưởng trầm lầng, với điệu cảm khái:
Thương nỗi anh hùng dẫu vầng tá
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.
Sau này, Nguyễn Trải khi thảm cảnh Bạch Đàng cung có nòi buốn tương tự. Trong bài Cứa biển Bạch Đằng, nhà thơ cũng tháy dáng núi dường như vẫn còn in dấu vết thất bại của kẻ thù, củng bảng khuâng nhìn dòng nước trôi mà hoài Có:
Ngạc chặt kinh băm non lởm chồm;
Giáo chìm gươm gẫy bãi dăng dăng
Dòng trôi tìm bóng dạ bâng khuâng.
Tuy vậy, cảm hứng chính của Bài phú sông Bạch Đàng là sự ngợi ca chiến công oanh liệt của dân tộc ta trên dòng sông lịch sử này. Từ những câu thơ trữ tình ở đoạn trên, đến đoạn hai, tác giả chuyển sang những câu thơ tự sự, mượn lời các bô lão - những người đã từng chứng kiến và tham gia trận Bạch Đằng kể lại. Nếu như phân đắu là lời của khách thì đoạn hai là lời của các bô lão. Sự xuất hiện của họ làm cho việc miêu tả chiến trận thêm sinh động, Đồng thời việc chuyển ý được tự nhiên. (Mặc dù, ai củng biết dẫu lời của khách hay lời của các bô lão cũng chỉ là lời của tác giả). Các bô lão tiếp chuyện khách với tư cách đại diện cho nhân dân địa phương. Họ tôn kính khách và tự hào kể lại trận chiến năm xưa. Mở đầu, các bô lão giới thiệu cho khách biết: "Đây là nơi chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bát Ô Mã và "củng là bãi đất xưa Ngô chúa phá Hoàng Thao”. Bằng hai câu dài (mỗi câu 12 âm tiết), tác giả tạo được không khí trang nghiêm, đĩnh đạc làm nén cho việc miêu tả chiến trận ở phân tiếp theo.
Trận thủy chiến được khác họa thật cô đọng, với những câu ngắn từ 4 đến 6 âm tiết:
Thuyên bè muôn dội,
Tình ki pháp phới.
Ti hổ ba quán,
Giáo gươm sáng chói.
Ánh nhật nguyệt chữ phải mờ Bầu trời đất chữ sáp dỏ.
Bằng cách ngắt nhịp nhanh, bằng lối đói ngẫu chặt chẽ, bằng một loạt hình ảnh nối lên sự mãnh liệt, hùng dũng., đoạn thơ vừa trích đã thể hiện được sinh động không khí trận mạc quyết liệt trẽn sông Người đọc Có thể hình dung khá rõ sự đông đảo của lực lượng tham chiến, lẫn khí thế quyết chiến của hai bén và sự khốc liệt, dử dội của một cuộc chiến mà cả hai đéu ngang tài, ngang sức ("Trận đánh thư hùng chưa phân - chiến luỹ Bác Nam chồng đối"), có thể làm dổi thay cả vủ trụ (khiến cho mặt tráng, mặt trời phải mờ đi, trời đất phải đổi).
Sau khi miêu tả thế trận giao tranh ác liệt, các bô lảo nhận xét về đặc điểm của mỗi bên tham chiến. Kẻ địch thi có lực lượng hùng mạnh, lại thêm mưu kế gian xảo ("Tất Liệt thế cường - Lưu Cung chước dôi"). Và nhất là chúng có thừa sự kiêu ngạo của kẻ đà từng tung vó ngựa thốn tính nhiều quốc gia từ Á sang Âu: "Những tưởng tung roi một lần" là có thể: "Quét sạch Nam Bang bốn cõi". Còn ta, trước hết, đây là cuộc chiến đấu chính nghĩa, vỉ chính nghĩa nên thuận với lẽ trời ("trời cũng chiều người"). Trong quan niệm của cha ông ta xưa, trời bao giờ củng công minh, chính trực, đứng về phía chính nghĩa, trừng phạt kẻ bạo tàn. Thêm vào đó, ta lại có điểu kiện tự nhiên hiểm yếu ("Trời đất cho nơi hiểm trở"), lại có người tổ chức lãnh đạo kiệt xuất với đường lối chiến thuật, chiến lược đúng đắn. Do dó, địch thua nhục nhã và ta đã thắng vang dội. Nước sông "tuy chảy hoài" từ đó tới nay, trải bao tháng năm nhưng cái "nhục ấy vẫn không rửa nổi" ở đây, Trương Hán Siêu dẫn tích bên Tàu (Tào Tháo thua trận ở Xích Bích; Bổ Kiên với hàng trăm vạn quân bị thất bại ở Hợp Phì) để nói về các trận đánh trên Bạch Đàng giang từ thời Ngô Quyền đến Trần Hưng Đạo. Các bô lão không nói nhiều đến phía quân ta, chi nhán mạnh lòng biết ơn sâu nặng: "Tái tạo công lao - Nghìn đời ca ngợi" cũng đủ cho người đọc cảm nhận một cách sâu sắc tầm vóc to lớn của chiến thắng Bạch Đằng trong sự nghiệp bảo vệ giang sơn gẫm vóc của quán dân đời Trán. Điếu đáng lưu ý, khi nói vế quân địch, các bô lão nhấn mạnh vào sức mạnh vật chất của chúng, còn nói về phía ta, lại nhấn mạnh vào yếu tố tình thần. Rõ ràng, lời các bô lão có ý nghĩa sâu sắc, chuẩn bị dẫn đến những lời bình ở phán tiếp theo:
Những người bát nghĩa tiêu vong,
Nghìn thu chi có anh hùng lưu danh.
Lời bình này trở thành chân lí của muôn đời, sống mãi cùng Bạch ĐÀng giang hùng vỉ.
Ở đây củng như phán đầu, thời gian và không gian được tác giả thể hiện đan xen với nhau. Xưa và nay, không gian và thời gian dường như cũng được tái hiện làm cho câu chuyện tránh được sự tẻ nhạt, đơn điệu; luôn sinh động hấp dẫn người đọc. Ngày nay, người ta thường gọi cách thể hiện này là nghệ thuật đổng hiện.
Tiếp theo lời các bô lão, khách củng vui vẻ nối tiếp lời ca két thuc bài phú Lời của khách chính là phán tổng kết có chức năng bố sưng, đính chính những nhận định mà các bô lão đã trình bày ở trên (về nguyên nhân của chiến tháng). Với tâm trạng hân hoan, khách vừa đé cao công lao to lớn của các vị anh hùng đời Trấn, vừa bày tò niêm tin vào sức sống mảnh liệt và tương lai tươi sáng của đất nước, trong đó, đặc biệt nhấn mạnh tới yếu tố "đức cao" của dân tộc. Sự nhìn nhận của khách về chiến thắng có chiều sâu triết lí. Sức mạnh của non sông đất nước không phải ở địa thế hiểm trở mà trước hết ở con người ("Giặc tan muôn thuở thanh bình - Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao").
Đây là một bài phú có bố cục chật chẽ, nhịp điệu thay đổi linh hoạt, phóng khoáng, lời văn cô đọng, dổi dào cảm xúc, khi thì xót thương nhớ tiếc, khi thì vui sướng tự hào. Tác già lại rất giôi phán thân thành những nhản vật khác nhau để vừa kể vừa phụ họa thêm làm cho bài phú giàu chất thơ, khiến người đọc xúc động tự hào về non sông đất nước hùng vĩ, về chiến công lừng lẫy và đường lối giữ nước tài tình của quân dân ta thời Trần mà cũng là của dân tộc ta 7 thế kỉ trước.