Bình giảng khổ thơ sau trong bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" (Hàn Mặc Tử). "Gió theo lối gió, mây đường mây/ Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay/ Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/ Có chở trăng về kịp tối nay?"

         "Vĩ Dạ thôn! Vĩ Dạ thôn

Biếc che cành trúc không buồn mà say?"

Vẻ đẹp của thôn Vĩ qua những câu thơ ấy của Bích Khê đầy ấn tượng. Vĩ Dạ đẹp, Vĩ Dạ buồn, Vĩ Dạ đắm say lòng người ngoạn cảnh đã cuốn hút biết bao người đắm chìm trong đó để rồi có một người cho ta một bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đặc sắc - Hàn Mặc Tử.

Vĩ Dạ đẹp với những khu vườn xanh tốt, mượt mà dưới ánh bình minh, với những con người dịu hiền, phúc hậu thấp thoáng sau cành tre lá trúc thanh tao. Vĩ Dạ dịu dàng thơ mộng với dòng sông hiền hoà:

"Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?"

Cặp câu thơ đầu bằng biện pháp miêu tả có sức gợi sâu sắc hình ảnh mây gió vần vũ. Câu thơ cho ta nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng, thông thường thì gió và mây là những sự vật gắn kết với nhau, luôn đi liền nhau, bởi vậy giờ đây, khi "gió theo lối gió mây đường mây" nghĩa là tất cả đang ở trong thế của sự chia lìa, tan tác. Điều này phù hợp với tâm trạng của tác giả. Nhưng đối với thiên nhiên, khi gió to thì mây vần vũ, lúc bấy giờ, gió mới thổi mây bay đi. Còn ở đây, trong Vĩ Dạ của xứ Huế, tất cả đều mang một vẻ đẹp nhẹ nhàng và thơ mộng. Nơi đây, mây cứ lững lờ bay bên trên còn gió thì hiu hiu thổi, gợi lên cái gì đó buồn bã, phù hợp với tâm trạng của chính tác giả.

Mọi sự xuất hiện của cảnh vật đều gợi cảm giác buồn. Cả dòng nước trôi cũng không nằm ngoài âm hưởng chung ấy: "Dòng nước buồn thiu họa bắp lay". Dòng nước thâm cái buồn của ngoại cảnh hay ấy chính là cái "buồn thiu" của tâm cảnh đang lan toả và bao trùm lên ngoại giới. Bên bờ sóng, những bông hoa kia nhữ cũng thấm nỗi buồn của cảnh vật nên cũng chỉ khẽ khàng lay động. Ta cũng đã từng bắt gặp hình ảnh hoa bắp lay đó ở nhiều câu thơ nhưng dù ở đâu thì nó cũng thật buồn. Là những câu thơ của Huy Thông:

"Lá ngô lay ở bờ sông

Bờ sông vẫn gió, người không thấy về"

Hay đó là nỗi buồn trước cảnh hoa lay lan toả trong lòng người đọc:

"Ai về Giồng Dứa qua truông

Gió lay bông sậy, bỏ buồn cho ai"

Dù là nỗi buồn của cảnh chia li, nỗi buồn của nỗi chờ mong mỏi mòn nhưng cảnh bờ sông và những cây bắp, lau bên bờ sông đều mang lại cho người ta cảm giác buồn. Dòng sông và cây hoa bắp lay của Hàn Mặc Tử cũng vậy, đẹp một vẻ đẹp buồn nhẹ nhàng và thơ mộng. Thiên nhiên đẹp nhưng cũng thật lạnh lẽo, dường như nó phảng phất tâm trạng u buồn, cô đơn của nhà thơ trước sự xa cách, thờ ơ của cuộc đời đối với mình.

Trong khung cảnh sông nước nên thơ, thời gian chuyển biến linh hoạt. Thoắt cái, cảnh vật đã chuyển sang một buổi đêm trăng huyền ảo:

"Thuyền ai dậu bến sông trăng đó?

Có chở trăng về kịp tối nay?"

Hai câu thơ sau cho thây tâm hồn nhà thơ có buồn và cô đơn nhưng vẫn chan chứa tình yêu đối với con người và thiên nhiên xứ Huế. Đây là cảnh thực mà cứ như ảo vì dòng sông không còn là dòng sông của sóng nước nữa mà là dòng sông ánh sáng, lấp lánh ánh trăng vàng, hay đấy là dòng ánh sáng tuôn chảy khắp vũ trụ làm không gian nghệ thuật thêm hư ảo, mênh mang. Cũng vì thế, con thuyền vốn có thực trên dòng sông đã trở thành một hình ảnh của mộng tưởng, nó đậu trên bến sông trăng để chở trăng về một bến nào đó trong mơ. Là thuyền ai? Thuyền của người thôn Vĩ hay con thuyền của chính tác giả? Cũng không rõ nữa, chỉ biết rằng con thuyền ấy chở đầy trăng. Bằng ngòi bút liên tưởng và trí tưởng tượng phong phú, Hàn Mặc Tử đã phác hoạ được nét đẹp nhất của sông Hương là vẻ huyền ảo thơ mộng dưới ánh trăng. Đến câu thơ cuối, con thuyền, dòng sông, ánh trăng trong sự hồi tưởng quá khứ ấy lại gắn với cảm nghĩ của nhà thơ trong hiện tại, bởi nhà thơ mong muốn con thuyền chở trăng về kịp tối nay chứ không phải là một tối nào khác? Con thuyền trở thành con thuyền chỏ trên mình người du khách đặc biệt, liệu có kịp cập một bến thời gian nào đó tôi nay? Phải chăng cái "tối nay" đó là một tối thật buồn và cô đơn, nhà thơ đang có những tâm sự mà chỉ có trăng mới có thể hiểu được? Điều đó cho thấy Hàn Mặc Tử rất yêu trăng, rất yêu xứ Huế, yêu cảnh vật và con người nơi đây nhưng dường như cảnh Huế, người Huế không hiểu được, không đáp lại tình yêu ấy nên nhà thơ tìm đến vầng trăng như một người để trút bầu tâm sự cho vơi đi cảm giác lẻ loi, cô đơn và những mặc cảm bệnh tật.

Cả bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" là một tác phẩm nghệ thuật để lại cho người đọc nhiều suy tư. Bằng những biện pháp tu từ và cặp mắt quan sát, cảm nhận tinh tế của mình, Hàn Mặc Tử đã tiếp tục vẽ những nét vẽ khắc hoạ rõ hơn về thôn Vĩ trong khổ thơ thứ hai. Với sông Hương, dòng nước trôi hờ hững, với mây bồng bềnh, con thuyền, ánh trăng và đặc biệt là một tấm lòng yêu thiên nhiên, khát khao, khắc khoải trong khát vọng tình đời, tình người, nhà thơ sẽ khiến cho người ta còn mãi vương vấn về một Vĩ Dạ của xứ Huế mộng mơ, nơi có một cặp mắt đau đáu hướng về...

BÀI CÙNG NHÓM