Dấu ấn thơ ca dân gian trong bài “Tương tư” của Nguyễn Bính

Nhắc đến thơ mới, ta thường nghĩ đến những vần thơ chịu ảnh hưởng sâu sắc từ phương Tây: thơ Xuân Diệu, thơ Chế Lan Viên, thơ Nguyễn Hoàng Chương... không hòa tan mình trong đó, thơ Nguyễn Bính vẫn giữ được những nét “chân quê” giản dị, chất phác nhờ hấp thụ ảnh hưởng từ thơ ca dân gian. Dấu ấn cổ truyền đặc sắc ấy in đấu khá rõ trong thi phẩm “Tương tư”.

Tên bài thơ và cũng là chủ đề của bài thơ: “Tương tư“ là nhớ nhau. Không phải con nhớ mẹ, chị nhớ em, bà nhớ cháu... mà anh nhớ em! Tương tư là nỗi nhớ của tình yêu đôi lứa. Đây là đề tài quen thuộc trong ca dao, dân ca. Nền văn học dân gian còn ghi lại những vần thơ tuyệt bút viết về nỗi nhớ của nam nữ:

“Buồn trông con nhện giăng tơ

Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai?

Buồn trông chềnh chếch sao mai

Sao ơi sao hỡi nhớ ai sao mờ?”.

Hay

“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi

Như đứng đống lửa như ngồi đống than”

“Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ

Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai?”...

Tiếp thu ca dao, dân của Nguyễn Bính học được giọng điệu mượt mà, thể thơ lục bát đằm thắm thú vị, hình ảnh thơ mộc mạc mà thiết tha... Những điều đó đã tạo nên nét đẹp riêng “chân quê” của bài .“Tương tư”.

Nét tinh tế thiết tha ân tình của thể thơ lục bát dân gian được thi nhân nâng niu trân trọng.

“Thôn Đoài/ ngồi nhớ/ thôn Đông

Một ngườỉ/chín nhớ/ mười mong / một người

Nắng mưa/ là bệnh/ của giời

Tương tư/ là bệnh/ của tôi/ yêu nàng”.

Sự tha thiết, nhịp nhàng, lối bắt vần dễ nhớ dễ thuộc của lục bát thật thích hợp với những tình yêu đôi lứa nơi thôn dã.

Chưa hết, những hình ảnh thơ quen thuộc trong thơ ca dân gian đã được Nguyễn Bính học hỏi, vay mượn và sử dụng đầy hiệu quả.

Những “thôn Đoài”, “thôn Đông” thân quen biết mấy với đời sống người nông dân. Những giàn trầu, những hàng cau có ai không nghĩ đến “Sự tích trầu cau” sâu nặng nghĩa tình. Lấy “miếng trầu làm đầu câu chuyện” Nguyễn Bính cũng lấy hình ảnh trầu cau để nói chuyện tương tư:

“Nhà em có một giàn giầu

Nhà anh có một hàng cau liền phòng”

Dân gian lấy trầu cau để nói đến sự hòa hợp lứa đôi, nói đến thủy chung son sắt:

Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân”

“Giầu này giầu tính giầu tình

Giầu loan giầu phượng giầu mình với ta

Giầu này em têm từ tối hôm qua

Giấu thầy giấu mẹ em mang cho chàng..”..

Còn Nguyễn Bính, mượn cớ nhà em có giàn giầu nhà anh có hàng cau (hòa hợp quá đi!) để tiếc nuối “Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này”. Tiếc nuối và cũng là trách móc “Có xa xôi mấy mà tình xa xôi”. Sự liên tưởng của chàng trai thật đáng yêu. Rồi chàng trai dỗi hờn: sao nhà em có giầu nhà anh có cau mà... “Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”. “Lá” đây có lẽ cũng là lá trầu. Lá chuyển màu rơi rụng chỉ sự phối pha xa cách của tình cảm cô gái.

Sự phôi pha, xa cách ấy vì đâu? Vì “cách trở đò giang?”. Ca dao từng nói:

‘Yêu nhau mấy núi cũng trèo

Mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua”.

Vậy thì đâu phải xa xôi. Nhà mình nhà ta cách nhau có “một đầu đình”. Mà đình làng xưa vốn là nơi để gái trai nên duyên nên phận:

“Hôm qua tát nước đầu đình

Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen”.

Vậy nên chẳng hiểu vì đâu đôi ta không thành đôi thành lứa. Chàng trai với nỗi “tương tư“ bồn chồn chẳng dứt cứ trở đi trở lại nỗi băn khoăn:

“Biết cho ai hỏi ai người biết cho

Bao giờ bến mới gặp đò ?”

Sử dụng những hình ảnh quen thuộc trong thơ ca dân gian, Nguyễn Bính đã gợi lại những nếp nghĩ, nếp sống mộc mạc ân tình của người nông dân nơi thôn dã. Không chỉ vậy, mượn những hình ảnh đó, nhà thơ còn giúp nhân vật trữ tình của “Tương tư” bộc lộ lòng mình, ấy là nỗi nhớ nhung tha thiết, bồn chồn, khắc khoải.

Lốì ví von trong “Tương tư“ cũng rất gần với dân gian. Nói về tình yêu, dân gian vô cùng tinh tế “nói xa” rồi mới “nói gần”, không bao giờ “nói thẳng như ruột ngựa”. Bày tỏ niềm tiếc nuối vì người thương đã lấy chồng, chàng trai phải đưa đẩy, xa xôi rồi mới bày tỏ nỗi niềm:

“Trèo lên cây bởi hái hoa

Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân

Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc

Em đã lấy chồng anh tiếc lắm thay”.

“Tương tù'” cũng mượn lối nói bóng bẩy xa xôi ấy:

“Gió mưa là bệnh của giời

Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”.

Ví von như thế để khẳng định: tình yêu của mình cũng như một quy luật tất yếu của tự nhiên. Trời có nắng có mưa, người có yêu có thương, vậy mới là người!

Hình ảnh “bến” “đò” “hoa khuê các” “bướm giang hồ” cũng vốn là những hình ảnh đầy biểu tượng. Trong tình yêu, người con trai thường được ví với thuyền ra đi, với bướm giang hồ; người con gái chỉ là hoa là bến:

“Thuyền về có nhá bến chăng

Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”.

Mượn hình ảnh kín 'đáo ấy, chàng trai trong nỗi tương tư dâng trào đã bày tỏ khát khao:

“Bao giờ bến mới gặp đò ?

Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau?”

Tình yêu dù sôi nổi bồng bột đến mấy, con người Việt Nam vẫn không mất đi sự tinh tế, kín đáo. Thơ ca đã thể hiện điều ấy qua những hình ảnh ví von rất gợi.

Tiếp thu những nét truyền thống trong thơ ca dân gian, nhưng điều ấy không hề làm thi sĩ “chân quê” trở nên “quê mùa” trước một rừng các nhà thơ mới. Điều đó trước hết khẳng định sức sông tiềm tàng của thơ ca dân gian - tinh hoa của dân tộc bao đời. Đó cũng tạo nên phong cách riêng của Nguyễn Bính trong nền văn học dân tộc.

BÀI CÙNG NHÓM