Đang chuẩn bị liên kết để tải về tài liệu:
Hồng ban rắn Bazin

Đang chuẩn bị nút TẢI XUỐNG, xin hãy chờ

Năm 1861, Bazin miêu tả dạng viêm mô mỡ trên bệnh nhân bị bệnh lao và đặt tên là hồng ban rắn erythema induratum; với đặc điểm mô bệnh học là hoại tử thối. Với biểu hiện lâm sàng là các phản ứng dạng nốt dưới da, một số tác giả đã từng nhận định đây là bệnh lao tại chỗ do có môi liên quan mật thiết giữa biểu hiện da với bệnh lao nội tạng, test nội bì dương tính, và đáp ứng một phần với thuốc điều trị chống lao. Một số nghiên cứu trước đây. | II Ầ 1 V n Hồng ban răn Bazin I. ĐỊNH NGHĨA Năm 1861 Bazin miêu tả dạng viêm mô mỡ trên bệnh nhân bị bệnh lao và đặt tên là hồng ban rắn erythema induratum với đặc điểm mô bệnh học là hoại tử thối. Với biểu hiện lâm sàng là các phản ứng dạng nốt dưới da một số tác giả đã từng nhận định đây là bệnh lao tại chỗ do có môi liên quan mật thiết giữa biểu hiện da với bệnh lao nội tạng test nội bì dương tính và đáp ứng một phần với thuốc điều trị chống lao. Một số nghiên cứu trước đây khẳng định rằng bệnh hồng ban rắn Bazan không phải là kết quả trực tiếp của vi khuẩn lao tại mô mỡ của da. Tuy nhiên những nghiên cứu hiện nay chỉ ra rằng trong một nhóm nhỏ bệnh nhân bị viêm mao mạch nút và phản ứng Mantoux dương tính tác giả đã phát hiện thấy mảnh DNA đặc hiệu của trực khuẩn lao tại mảnh sinh thiết da. Hình ảnh lâm sàng và mô học không có bất kỳ mối liên quan nào với bệnh lao. Danh từ hiện tại được sử dụng viêm mao mạch nốt nodular vasculitis dùng để miêu tả tất cả các trường hợp viêm mô mỡ vùng thuỳ có hoặc không có liên quan đến bệnh lao. II. NGUYÊN NHÂN VÀ SINH BỆNH HỌC Tác động ban đầu xuất hiện là viêm mao mạch tại mạch máu dưới da gây thiếu máu làm viêm và tổn thương tế bào mỡ. Nguyên nhân của bệnh không rõ nhưng giả thiết cho rằng là do phức hợp miễn dịch gây tổn thương mao mạch. Bằng miễn dịch huỳnh quang phát hiện thấy có sự lắng đọng Ig bổ thể và kháng nguyên vi khuẩn tại tổn thương viêm mao mạch nốt. Tuy vậy hầu hết các trường hợp khác không có bằng chứng cụ thể ủng hộ cơ chế miễn dịch. III. BIỂU HIỆN LÂM SÀNG Bệnh thường gặp hơn ở nữ và biểu hiện lâm sàng là nốt hoặc mảng cứng màu đỏ thường xuất hiện 2 bên hay tái phát và tiến triển mạn tính. Vị trí hay gặp nhất là vùng bắp chân nhưng tổn thương có thể gặp ở cẳng chân và đùi. Sớm hay muộn tổn thương này có màu đỏ hơi xanh và thường loét trước khi lành để lại sẹo teo. Vết loét tiến triển ra vùng bờ có thể tồn tại lâu trước khi lành. Có xu hướng tái phát theo mùa và bệnh thỉnh thoảng kéo dài nhiều năm. Thời tiết .