Đang chuẩn bị liên kết để tải về tài liệu:
Danh nhân Việt Nam: Thích Minh Nguyệt
Đang chuẩn bị nút TẢI XUỐNG, xin hãy chờ
Tải xuống
Thích Minh Nguyệt (Đinh mùi 1907 - Ất sửu 1985) Hòa thượng Phật giáo, chiến sĩ vận động hòa bình, dân chủ. Người sáng lập Hội Lục Hòa tăng Nam phần. Ông là vị giáo phẩm của Phật giáo, đóng góp nhiều cho sự nghiệp Cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng tổ quốc Việt Nam. Sau Cách mạng tháng Tám từng giữ chức Hội trưởng Phật giáo cứu Quốc Nam Bộ, Ủy viên Mặt trận Việt Minh khu Sài Gòn Gia Định và Nam Bộ. Năm 1960 bị bắt đày đi Côn Đảo đến năm 1974 mới. | Thích Minh Nguyệt Đinh mùi 1907 - Ất sửu 1985 Thích Minh Nguyệt Đinh mùi 1907 - Ất sửu 1985 Hòa thượng Phật giáo chiến sĩ vận động hòa bình dân chủ. Người sáng lập Hội Lục Hòa tăng Nam phần. Ông là vị giáo phẩm của Phật giáo đóng góp nhiều cho sự nghiệp Cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng tổ quốc Việt Nam. Sau Cách mạng tháng Tám từng giữ chức Hội trưởng Phật giáo cứu Quốc Nam Bộ Ủy viên Mặt trận Việt Minh khu Sài Gòn Gia Định và Nam Bộ. Năm 1960 bị bắt đày đi Côn Đảo đến năm 1974 mới được trao trả. Sau 30-4-1975 là Chủ tịch Ủy ban liên lạc Phật giáo yêu nước Thành phố Hồ Chí Minh dự Hội nghị Phật giáo thế giới tại Maxcơva và Mông Cổ Phó Pháp chủ giáo hội Phật giáo Việt nam. Ông mất trong năm 1985 thọ 78 tuổi. Thích Quảng Đức Đinh dậu 1897 - Quí mão 1963 Nguyễn Văn Khiết Đinh dậu 1897 - Quí mão 1963 . Tức Bồ tát Quảng Đức nguyên tên là Lâm Văn Tuất vì làm con nuôi Hòa thượng Thích Hoằng Thâm họ Nguyễn - cậu ruột ông quê làng Hội Khánh huyện Vạn Ninh tỉnh Khánh Hòa. Song thân ông là cụ Lâm Hữu Ứng và bà Nguyễn Thị Nương là một gia đình có truyền thống tín ngưỡng đạo Phật. Năm lên 7 tuổi ông vào tu tại chùa của cậu ruột là Hòa thượng Hoằng Thâm năm 15 tuổi thọ Sa di năm 20 tuổi Tì kheo có pháp danh là Thị Thủy Pháp tự là Hành Pháp hiệu là Thích Quảng Đức. Ngoài ra ông còn được các đạo hữu gọi là Hòa thượng Long Vĩnh vì có lúc ông trụ trì chùa Long Vĩnh ở Gia Định. Nơi đây ông lấy hiệu là Thích Giác Tánh. Sau khi thọ giới Tì kheo ông lập lại ngôi chùa trên núi thuộc huyện Ninh Hòa tỉnh Khánh Hòa gọi là Thiên Lộc tự hay Thiên An tự đào tạo được một số Sa di. Năm 1932 nhân An Nam Phật học hội tức Hội Phật học Trung Kì ra đời ông được mời làm Chứng minh Đạo sư tại chi hội Phật học Ninh Hòa rồi lãnh chức Kiểm tăng của Giáo hội tỉnh Khánh Hòa. Năm 1943 ông vào miền Nam hóa đạo khắp các tỉnh Sài Gòn Gia Định Bà Rịa Định Tường Hà Tiên và từng sang Campuchia nghiên cứu kinh điển Pali hơn 3 năm. Trong thời gian hành đạo ông đã có công xây dựng và Trùng tu hơn 31 cảnh chùa