Đang chuẩn bị liên kết để tải về tài liệu:
Danh nhân Việt Nam: Phạm Hồng Thái (1934-1968)

Đang chuẩn bị nút TẢI XUỐNG, xin hãy chờ

Phạm Hồng Thái(tên thật: Phạm Thành Tích; 1895 - 1924), liệt sĩ chống Pháp nổi tiếng đầu thế kỉ 20. Quê: làng Do Nha, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Học Trường Kĩ nghệ Hải Phòng (1916). Năm 1919, công nhân Nhà máy điện Hãng SIFA, tham gia đấu tranh, bị sa thải. Năm 1923, làm ở Nhà máy Xi măng Hải Phòng. Tháng 1.1924, cùng Lê Hồng Phong sang Xiêm (Thái Lan) rồi sang Quảng Châu (Trung Quốc). Tháng 4.1924, gia nhập Tâm tâm xã do Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn thành lập (1923). Tháng 4.1924, ám. | Phạm Hồng Thái 1934-1968 Phạm Hồng Thái tên thật Phạm Thành Tích 1895 - 1924 liệt sĩ chống Pháp nổi tiếng đầu thế kỉ 20. Quê làng Do Nha huyện Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An. Học Trường Kĩ nghệ Hải Phòng 1916 . Năm 1919 công nhân Nhà máy điện Hãng SIFA tham gia đấu tranh bị sa thải. Năm 1923 làm ở Nhà máy Xi măng Hải Phòng. Tháng 1.1924 cùng Lê Hồng Phong sang Xiêm Thái Lan rồi sang Quảng Châu Trung Quốc . Tháng 4.1924 gia nhập Tâm tâm xã do Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn thành lập 1923 . Tháng 4.1924 ám sát toàn quyền Meclanh Merlin . Ngày 19.4.1924 Phạm Hồng Thái giả làm phóng viên lọt vào khách sạn Vichtoria ở Sa Điện tô giới của Pháp ở Quảng Châu nơi Meclanh dự tiệc ném tạc đạn và Meclanh bị thương nhẹ. Phạm Hồng Thái bị truy đuổi phải nhảy xuống Châu Giang hi sinh. Di hài được chính quyền Trung Hoa mai táng ở núi Hoàng Hoa Cương khu mộ của 72 liệt sĩ Trung Quốc hi sinh trong cuộc Cách mạng Tân Hợi 1911 có bia đề Việt Nam liệt sĩ Phạm Hồng Thái chi mộ . Phạm Huy Thông 1916-1988 Phạm Huy Thông 1916-1988 Phạm Huy Thông sinh ngày 22 tháng 11 năm 1916 trong một gia đình nho học quê làng Đào Xá xã Bãi Sậy huyện Ân Thi. Sau khi tốt nghiệp cử nhân Luật năm 1937 ông sang Pháp du học đậu tiến sĩ luật khoa tiến sĩ văn khoa thạc sĩ sử - địa. Năm 1946 ông được cử làm thư ký cho Bác Hồ và thư ký Hội nghị ở Fontainebleau rồi làm cố vấn cho phái đoàn Việt Nam thường trú tại Pháp và hoạt động trong tổ chức Việt kiều. Năm 1947 ông được Chính phủ Pháp phong hàm học vị giáo sư lúc đó ông mới 31 tuổi. Năm 1948 có tài liệu ghi năm 1949 ông gia nhập Đảng cộng sản Pháp. Năm 1952 ông phụ trách tổ chức Việt kiều hải ngoại. Cũng trong năm đó ông bị trục xuất khỏi Pháp. Đầu năm 1955 ông bị chính quyền nguỵ Sài Gòn đưa về quản thúc tại Hải Phòng. Trong lĩnh vực học thuật ông đã làm hiệu trưởng trường Đại học sư phạm 1956-1967 Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Xã hội và Nhân văn Viện trưởng Viện khảo cổ học 1968-1988 . Sau 1955 hầu hết công trình nghiên cứu của ông nghiêng hẳn về nghiên cứu Sử học và .