Đang chuẩn bị liên kết để tải về tài liệu:
Địa lý tự nhiên tập 2 part 7

Đang chuẩn bị nút TẢI XUỐNG, xin hãy chờ

Tham khảo tài liệu 'địa lý tự nhiên tập 2 part 7', khoa học tự nhiên, công nghệ môi trường phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả | Từ bảng 39 thành phần clorua là quan trọng nhất. Trong đó natri clorua chiếm tới 77 8 nên muối biển có vị mặn chát. Ngược lại các muối khác như bromua iodua. chiếm tỉ lê rất nhỏ chỉ khoảng 0 2 . Tuy nhiên thành phần iôt này có giá trị trong việc chống bướu cổ. Tất cả các muối này tạo thành nổng độ muối của biển. Độ muối theo Uỷ ban Quốc tế Hải dương 1902 là số lượng muối có trong 1000 g nước biển khi toàn bộ lượng CO bị ôxi hoá các nguyên tố Br I. được thay thế bàng nguyên tô C1 và một số vật chất hữu cơ khác cũng hoàn toàn bị ôxi hoá. Theo Đit-ma Diltmar lượng muối này bằng 35g kg tức là 35 rj0. Độ muối này có thể thay đổi song các thành phần vần giữ nguyên tỉ lệ ổn định. Các muối hoà tan trong nước biển thường tổn tại dưới dạng ion. Các ion có điện tích dương gọi là cation như Ca Na. còn các ion mang điện tích âm - gọi là các anion như Cl SO4. Do C1 chiếm một tỉ lệ lớn lại dễ xác định nên Knút-sen M.Knudsen 1901 đã đề xuất việc xác định độ muối cúa nước biển theo công thức sau S AM 0 03 1 805 C1 Trong đó 0 03 và 1 805 là hệ sô thực nghiệm. Sau đó UNESCO đã chuyển thành công thức đơn giản sau S W 1 80655 C1 Về ngiíổìỉ gốc của miíối hiển các tác giả đã dưa ra các ý kiến khác nhau. Tuy vậy có thể sắp xếp các ý kiến trên vào 2 loại cơ bản sau - Muối có từ khi hình thành đại dương Su-ba-ep L.P.Subaev cho rẳng Khi thoát khỏi bao manti nước đã hoà tan các chất dễ bay hơi nên đại dương bị khoáng hoá ngay từ khi mới ra đời hoặc ít nhất từ Thái Cổ nước đã khá mặn độ muối khoảng 25 7m và sau đó tãng dần cho đến nay. - Lúc đầu ỉà nước ngọt sau dó mới mặn dần lên Zen-kê-vic L.A.Zenkevich cho là sinh vật cổ đại là đồng nhất giữa sông và biển bọt biển. Nước biển chỉ mặn từ Tiền Cambri và từ Cambri tới nay là không đổi. Stra-khôp N.M. Strakhov 1941 cho ràng các động vật thời Tiền Cam có xương không phải là Caỉci mà là Kitin hay Silic. Hiện tượng này theo Sa-môi-lôp Samoilov 1921 là do nước biển nghèo CaCO3. Nổng độ muối biển thời Permi mới là 21 1và đêh Créta mới giống ngày nay.