Đang chuẩn bị liên kết để tải về tài liệu:
Dẫn liệu phân tử và quan hệ phát sinh giữa một số loài chân kép họ Paradoxosomatidae ở Việt Nam (Diplopoda: Polydesmida)

Đang chuẩn bị nút TẢI XUỐNG, xin hãy chờ

Bài viết cung cấp dẫn liệu phân tử của 10 loài chân kép họ Paradoxosomatidae ở Việt Nam. Một đoạn trình tự 680 bp của gen ty thể COI (Cytochrome c Oxidae Subunit I) đã được giải mã và lưu trữ trên ngân hàng gen (GenBank). | Dẫn liệu phân tử và quan hệ phát sinh giữa một số loài chân kép họ Paradoxosomatidae ở Việt Nam (Diplopoda: Polydesmida) Dẫn liệu phân TAP tử vàCHI quanSINH HOC hệ phát 2016, sinh 38(2): giữa một 146-153 số loài DOI: 10.15625/0866-7160/v38n2.7654 DẪN LIỆU PHÂN TỬ VÀ QUAN HỆ PHÁT SINH GIỮA MỘT SỐ LOÀI CHÂN KÉP HỌ Paradoxosomatidae Ở VIỆT NAM (Diplopoda: Polydesmida) Nguyễn Đức Anh*, Nguyễn Giang Sơn Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Viện Hàn lâm KH & CN Việt Nam, *ducanh410@yahoo.com TÓM TẮT: Bài báo cung cấp dẫn liệu phân tử của 10 loài chân kép họ Paradoxosomatidae ở Việt Nam. Một đoạn trình tự 680 bp của gen ty thể COI (Cytochrome c Oxidae Subunit I) đã được giải mã và lưu trữ trên ngân hàng gen (GenBank). Tập hợp dữ liệu sau khi sắp xếp và căn chỉnh của đoạn gen COI có kích thước 571 bp từ 14 mẫu thuộc 11 loài; trong đó loài ngoài nhóm được sử dụng là Polydesmus denticulatus (C.L. Koch, 1847), thuộc họ Polydesmidae. Phân tích ma trận tương đồng và khoảng cách di truyền cho thấy sự phân tách rõ ràng giữa loài ngoài nhóm (họ Polydesmidae) và các loài thuộc họ Paradoxosomatidae. Khoảng cách di truyền giữa các loài chân kép họ Paradoxosomatidae dao động từ 0,063 đến 0,236. Hầu hết giá trị khoảng cách di truyền của loài Polydesmus denticulatus với các loài trong họ Paradoxosomatidae đều lớn hơn hai. Đối với mẫu cùng loài, giá trị khoảng cách di truyền cũng thay đổi từ 0,047 (loài Sellanucheza grandis), 0,063 (loài Tonkinosoma flexipes) và 0,102 (loài Tonkinosoma jeekeli). Cây phát sinh chủng loại được xây dựng dựa theo hai phương pháp: Maximum Likelihood (ML) và Bayesian Inference (BI). Cả hai cây ML và BI đều cho thấy các loài thuộc tộc Chamberlinini luôn tạo thành một nhóm và tách riêng với các loài khác. Quan hệ giữa loài và tộc khác (Tonkinosomatini, Sulciferini và Orthomorphini) chưa rõ ràng do sự hạn chế về dữ liệu nghiên cứu (dẫn liệu phân tử và số lương loài nghiên cứu). Ngoài .

TÀI LIỆU LIÊN QUAN