Đang chuẩn bị liên kết để tải về tài liệu:
Động từ năng nguyện hui trong tiếng Hán hiện đại và vấn đề giảng dạy
Đang chuẩn bị nút TẢI XUỐNG, xin hãy chờ
Tải xuống
Trong tiếng Hán hiện đại động từ năng nguyện thuộc nhóm động từ được sử dụng với tần suất lớn. Đa số các động từ năng nguyện trong tiếng Hán hiện đại là động từ đa nghĩa, hơn nữa giữa những động từ này có những nét nghĩa tương đương hoặc gần nghĩa với nhau, nên trong quá trình học và sử dụng tiếng Hán với vai trò như một ngoại ngữ người học thường xuyên mắc phải lỗi biểu đạt liên quan đến ngữ nghĩa. | Hồ Thị Nguyệt Thắng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 209 - 214 ĐỘNG TỪ NĂNG NGUYỆN “HUI” TRONG TIẾNG HÁN HIỆN ĐẠI VÀ VẤN ĐỀ GIẢNG DẠY Hồ Thị Nguyệt Thắng* Khoa Ngoại ngữ - ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Trong tiếng Hán hiện đại động từ năng nguyện thuộc nhóm động từ được sử dụng với tần suất lớn. Đa số các động từ năng nguyện trong tiếng Hán hiện đại là động từ đa nghĩa, hơn nữa giữa những động từ này có những nét nghĩa tương đương hoặc gần nghĩa với nhau, nên trong quá trình học và sử dụng tiếng Hán với vai trò như một ngoại ngữ người học thường xuyên mắc phải lỗi biểu đạt liên quan đến ngữ nghĩa. Trong đó, sử dụng sai động từ năng nguyện “会” ( hui) chiếm tỉ lệ lớn. Bài viết tập trung phân tích đối chiếu đặc điểm ngữ nghĩa và ngữ pháp của động từ năng nguyện “会” (hui) trong tiếng Hán hiện đại và từ biểu đạt tương đương trong tiếng Việt. Từ đó đưa ra một số kiến nghị về việc giảng dạy nhằm nâng cao hiệu quả dạy và học động từ năng nguyện “会” (hui). Từ khóa: đối chiếu, “hui”, ngữ nghĩa, ngữ pháp, “biết” ĐẶT VẤN ĐỀ* Trong tiếng Hán hiện đại động từ năng nguyện thuộc nhóm động từ được sử dụng với tần suất lớn. Đã có không ít những nghiên cứu bàn về ý nghĩa, cách sử dụng của nhóm động từ này, như Lã Thúc Tương (1986:244), Chu Tiểu Binh (1989), Bành Lợi Trinh (2007). Thành tựu nghiên cứu rất phong phú. Đa số các động từ năng nguyện trong tiếng Hán hiện đại là động từ đa nghĩa, hơn nữa giữa những động từ này có những nét nghĩa tương đương hoặc gần nghĩa với nhau. Học giả Lã Triệu Cách (2003) khi tiến hành khảo sát lỗi dùng động từ năng nguyện của người học tiếng Trung Quốc với tư cách là ngoại ngữ thông qua các bài viết, thư tín và phiếu khảo sát đã chỉ ra rằng tỉ lệ lỗi do sử dụng sai nghĩa của động từ năng nguyện chiếm 51% trên tổng tỉ lệ sử dụng. Trong đó, tỉ lệ sử dụng sai động từ năng nguyện “会” với các động từ năng nguyện khác như sau: 能—会 26%,要— 会 10%,想—会 11% [1]. Trong quá trình tham gia giảng dạy tại Khoa Ngoại Ngữ- ĐHTN, chúng tôi thấy rằng sinh viên .