Bi kịch của Vũ Như Tô và Đan Thiềm trong Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài. (Trích kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng)

 HƯỚNG DẪN LÀM BÀI

- Đây là một kiểu bài nghị luận văn học thuộc loại đề mở nghĩa là đề chỉ nêu vấn đề chứ không nêu yêu cầu, thực chất là yêu cầu phân tích, bình luận.

- Trọng tâm của đề là làm sáng rõ bi kịch của Vũ Như Tô (và Đan Thiềm) tức là số phận bi thảm của hai người do không giải quyết được mối mâu thuẫn giữa khát vọng nghệ thuật và thực tế xã hội hay nói khác đi là do không giải quyết đúng mối quan hệ đó.

- Đây là một đoạn trích nhưng là đoạn cuối nên khi phân tích, bình luận cần đi sâu vào đoạn trích cũng là đi sâu vào cao trào và kết cục của kịch, đồng thời có thể mở rộng ra, liên hệ với toàn tác phẩm để ý nghĩa được sáng rõ hơn.

BÀI VĂN THAM KHẢO

Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng là vở kịch lấy đề tài lịch sử nhưng không thiên về phản ánh đầy đủ sự kiện lịch sử nghĩa là không nhằm mục đích làm sử mà chủ yếu thể hiện bi kịch của người nghệ sĩ thiên tài không thực hiện được lí tưởng nghệ thuật mà còn phải chịu số phận bi đát do không giải quyết mâu thuẫn giữa khát vọng nghệ thuật to lớn và thực tế xã hội khắc nghiệt.

Bi kịch là thể loại kịch dựa vào xung đột bi đát của nhân vật anh hùng có kết thúc bi thảm và tác phẩm đầy chất thống thiết. Đó là một thể loại nghiêm ngặt đến khắc nghiệt, nó miêu tả thực tại theo lối nhấn mạnh, phơi bày những xung đột sâu sắc của thực tại dưới dạng bão hòa, căng thẳng đến cực hạn, mang ý nghĩa tượng trưng nghệ thuật (Theo Lại Nguyên Ân, 150 thuật ngữ văn học - NXB ĐHQG Hà Nội, Hà Nội 2002).

Mâu thuẫn bi kịch phải hội tụ đủ bốn tính chất: tính nội tại, có ý nghĩa xã hội to lớn, không thể giải quyết, mọi cách khắc phục mâu thuẫn dẫn đến sự diệt vong những giá trị quan trọng (Theo Phạm Vĩnh Cư).

Vũ Như Tô là một nghệ sĩ thiên tài, một nghệ sĩ có khát vọng nghệ thuật lớn. ông muốn xây dựng một công trình kiến trúc vĩ đại, tuyệt mĩ. Ông nói với vợ về Cửu Trùng Đài "...bằng trăm đình làng ta. Đây là ta làm cái đàn cho cả nước. Nước Tàu cũng không bằng kia". Nghĩa là Vũ Như Tô có khát vọng lớn về cái đẹp, cái phi thường, cái đẹp không tiền khoáng hậu, cái đẹp tranh tinh xảo với hóa công, cái đẹp bất tử, cái đẹp cho mọi người. Đó là lí tưởng nghệ thuật mà chỉ có thiên tài nghệ thuật mới thực hiện được. Vũ Như Tô nói thẳng với Lệ Tương Dực: "Hoàng Thượng cứ giữ lấy bản đồ (thiết kế Cửu Trùng Đài), cầm lấy quyển sổ (tính toán số liệu xây dựng Cửu Trùng Đài), tiện dân không dám nói sao, nhưng tiện nhân tin rằng không một kẻ nào làm nổi. Bản đồ kia chỉ là phần xác nhưng phần hồn chỉ ở lòng tiện nhân, mà phần hồn mới là phần chính". Lúc đầu, Vũ Như Tô cũng đã truyền được khát vọng nghệ thuật ấy cho thợ, thợ lúc đầu cung đã hồ hởi lao động, phát huy tài năng sáng tạo khéo léo, làm cho cả bọn khách trú (Tàu) cũng phải khen phục.

Vũ Như Tô đã vượt lên mối hận riêng và những vất vả khổ sở của bản thân và gia đình để xây dựng Cửu Trùng Đài (mẹ bị xô chết, các con thiếu đói, đau yếu, bản thân bị quan triều khinh thị, lại bị đá đè gãy chân), ông đã vượt lên tất cả, hi sinh tất cả vì thành công của kiệt tác nghệ thuật: "Ta chỉ có một hoài bão là tô điểm đất nước, đem hết tài ra xây cho nòi giống một tòa đài hoa lệ, thách cả những công trình sau trước tranh tinh xảo với hóa công", "... Vài năm nữa Cửu Trùng Đài hoàn thành, cao cả, huy hoàng, giữa cõi trần lao lực, có một cảnh bồng lai". Cửu Trùng Đài là lí tưởng cụ thể của ông. Khi Ngô Hạch cảnh báo Vũ Như Tô về cái chết, ông nói "Đời ta không quý bằng Cửu Trùng Đài" và khi nghe tin Cửu Trùng Đài đã bị đốt cháy, ông đau đớn rú lên và than một cách chua chát: "Thôi thế là hết. Dẫn ta đến pháp trường".

Không phải Vũ Như Tô không biết Lê Tương Dực là hôn quân, lúc đầu, ông đã cự tuyệt mặc dù Lê Tương Dực đánh trói dọa giết. Nhưng nghe theo Đan Thiềm, ông đã nhận xây Cửu Trùng Đài. Sự lựa chọn không đúng, cách giải quyết không đúng mâu thuẫn giữa người công dân và người nghệ sĩ đã dẫn đến kết cục bi thảm của bản thân người nghệ sĩ và của cả công trình nghệ thuật.

Đan Thiềm là một cung nữ bị thất sủng, nhưng cũng đam mê nghệ thuật như Vũ Như Tô. Chính Đan Thiềm đã khuyên Vũ Như Tô nhận xây Cửu Trùng Đài cho Lê Tương Dực - vì sự nghiệp nghệ thuật "Ông có tài, tài ông phải đem cống hiến cho non sông, không thể mục nát với cỏ cây... Đây là lúc mượn tay vua Hồng Thuận mà thực hiện cái mộng lớn của ông. Dân ta được nghìn thu hãnh diện, hậu thế sẽ xét công cho ông và nhớ ơn ông mãi". Vũ Như Tô coi Đan Thiềm như tri âm, tri kỉ "Cửu Trùng Đài đã vì bà mà có, lại nhờ bà mà toàn bích... Đài ấy tôi sẽ đặt tên là đài Đan Thiềm". Trước khi chết, Vũ Như Tô còn nói: "Đời ta chưa tận... Ta sẽ xây một đài vĩ đại để tạ ơn tri kỉ". Đan Thiềm không nghĩ đến tính mệnh mình mà chỉ lo cho Vũ Như Tô, Đan Thiềm không đi trốn mà ở lại để khuyên Vũ Như Tô trốn đi. Bà nói: "Tôi chết không thiệt hại cho đời. ông phải đi đi mới được". Vũ Như Tô xúc động nói: "Tấm lòng của bà chỉ có lòng cha mẹ tôi mới sánh kịp".

Nhưng chính lòng say mê nghệ thuật thuần túy đến quên mình cũng đã dẫn Đan Thiềm đến cái chết. Quân nổi loạn cho rằng do Đan Thiềm tác động nên Vũ Như Tô mới nhận xây Cửu Trùng Đài và mới xây Cửu Trùng Đài hăng hái thế. Họ căm thù cả Vũ Như Tô lẫn Đan Thiềm, còn bọn cung nữ vì ghen ghét và vì muốn khỏi bị trừng phạt đà dồn hết tội cho Đan Thiềm. Bọn họ chỉ vào Đan Thiềm nói: "Chính nó là thủ phạm, kẻ hay xúc xiểm vua là ả kia, chính nó mê hoặc vua. Chính nó dan díu với Vũ Như Tô...".

Cái chết của Vũ Như Tô, Đan Thiềm có nhiều nguyên nhân:

- Sự tàn bạo của những kẻ cầm đầu quân nổi loạn (cũng là một tập đoàn phong kiến).

- Sự thô thiển của quần chúng (có lí do chính đáng là quá khổ vì bị bòn rút sức lực, của cải và xương máu nữa).

- Sai lầm của Vũ Như Tô và Đan Thiềm: Nghệ thuật là đáng quý nhưng không thể để trên lợi ích sống còn của quần chúng, cái đẹp không thể trái với cái thiện, không thể đồng hành với cái ác. Việc xây Cửu Trùng Đài dưới thời hôn quân Lê Tương Dực là không đúng lúc, xây Cửu Trùng Đài khiến Lê Tương Dực càng có cớ tăng thêm sự áp bức bóc lột nhân dân.

- Bi kịch của Vũ Như Tô, Đan Thiềm không chỉ của một thời, đó là mâu thuẫn có tính lâu dài giữa khát vọng nghệ thuật và thực tại xã hội (thực tại bao gồm ý chí của lực lượng thống trị, điều kiện tinh thần, vật chất của nhân dân, của xã hội và tài năng, dũng khí của nghệ sĩ).

Vũ Như Tô là bi kịch nhưng không hoàn toàn bi quan vì Vũ Như Tô, Đan Thiềm chết nhưng khát vọng nghệ thuật của họ vẫn sống trong tư thế hiên ngang, trong những lời nói bất hủ của họ..

Nguyễn Huy Tưởng, tác giả vở kịch, người đã từng than "Mải vật lộn quên đài cao mộng lớn, công ông cha hay là nỗi thiệt thòi" cũng là người đã tin vào tiền đồ nghệ thuật Việt Nam, vào sức sống và sáng tạo của dân tộc Việt Nam "... đừng vội tủi, sức sống trên từ ải Bắc đến đồng Nam" (lời tựa Vũ Như Tô).

Đúng vậy, khát vọng nghệ thuật của nhân dân ta đã đang và sẽ được thực hiện khi đã hội tụ đủ những điều kiện của sự phát triển như đã nói ở trên, đó là sự lãnh đạo đúng đắn, điều kiện sống về vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng cao, những người nghệ sĩ được tự do sáng tác, được khuyến khích phát triển tài năng...

BÀI CÙNG NHÓM