Kể lại truyện “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài

Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra đều ngạc nhiên thấy một cô gái ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Sau hỏi ra mới biết cô ấy là vợ A Sử, con trai thống lí Pá Tra.

Mị về làm dâu nhà Pá Tra đã mấy năm. Từ năm nào, cộ không nhớ, cũng không ai nhớ. Nhưng người nghèo ở Hồng Ngài vẫn kể lại câu chuyên Mị về làm người nhà quan thống lí. Bố Mị lấy mẹ Mị không có đủ tiền cưới phải đến vay nhà thống lí, bố của thống lí Pá Tra bây giờ. Mỗi năm phải trả nợ lãi một nương ngô. Mẹ Mị đã mất, bố Mị nay đã già, vẫn chưa trả hết nợ. Năm ấy, Mị đã lớn. Pá Tra đến nói với bố Mị: "Cho tao đứa con gái mày về làm dâu thì tao xóa hết nợ cho”. Ông lão chưa biết nói thế nào, thì Mị bảo bố rằng: "Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”.

Tết năm ấy, con trai con gái vui chơi, đánh pao đánh quay rồi đêm đêm rủ nhau đi chơi. Con trai đến nhà cô gái, người mình yêu đứng thổi sáo xung quanh vách suốt đêm. Nhà Mị cũng thế. Rồi Mị đã bị A Sử đánh lừa, bị con trai thống lí Pá Tra bịt mắt, cõng đem về buồng. Khi tiếng nhạc sinh tiền cúng ma đường rập rờn nhảy múa trong nhà thống lí Pá Tra, thì A Sứ đến gặp bố Mị, nói: “Tôi đã cướp được con gái bố về làm vợ, tôi đem về cúng trình ma nhà tôi rồi... Tiền bạc để cưới thì bố tôi bảo đã đưa cả cho bố rồi”. Bố Mị chỉ còn biết cất lời than...

Hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc. Một hôm, Mị trốn về nhà, cặp mắt đỏ hoe. Gặp bố, Mị quỳ lạy, úp mặt xuống đất, nức nở. Bố Mị cũng khóc, đoán biết lòng con gái: "Mày về lạy chào tao để may đi chết đáy à? Mày chết nhưng nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ. Mày chết rồi thì không lấy ai làm nương ngô giả được nợ người ta, tao thì ốm yếu quá rồi. Không được, con ơi!". Mị bưng mặt khóc. Mị ném nắm lá ngón giấu trong áo xuống đất. Mị đành trở lại nhà thống lí.

Mấy năm qua, mấy nam sau, bố Mị chết. Mị không nghĩ đến chuyện ăn lá ngón tự tử nữa. Mị tưởng mình như con trâu con ngựa, chi biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Lên núi hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay, bẻ bắp, hái củi, bung ngô, tước sợi đay,... bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế. Mị lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Cái buồng Mị nằm, kín mít chỉ có một chiếc cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay. Nhìn ra ngoài, chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay nắng, Mị nghĩ chỉ ngồi nhìn ra, đến bao giờ chết thì thôi.

Những đêm tình mùa xuân nữa lại đến với cái làng Mèo đỏ. Mỏm đất phẳng đầu làng, trẻ con tụ tập trên sân chơi đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy. Mị nghe tiếng sáo ai rủ bạn đi chơi, thiết tha bồi hồi. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực lừng bát khi trong nhà thống lí, tiếng chiêng đánh ầm ĩ, người ốp đồng nhảy lên xuống, run bần bật. Mị lịm mặt ngồi nhìn người nhảy đồng, người hát. Mị nghe tiếng sáo văng vẳng gọi bạn đầu làng mà nhớ thời con gái, Mị có bao người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị. Khi mọi người đã về, chơi đã vãn cả, Mị vẫn ngồi trơ một mình. Mãi sau Mị đứng dậy đi vào buồng. Mị thấy lòng phơi phới trở lại, đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị muốn đi chơi. A Sử vừa ở đâu về. Hắn thay áo mới, khoác thêm hai vòng bạc vào cổ, bịt cái khăn trắng lên đầu. Mị cũng không nói. Mị xắn thêm một miếng mỡ bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Mị với tay lấy váy hoa, rút thâm cái áo vắt ở phía trong vách. A Sử lấy làm lạ, hỏỉ Mị: “Mày muốn đi chơi à?”. Mị không nói. Thằng A Sử trói đứng Mị vào cột bằng một thúng sợi đay. Hắn còn quấn tóc Mị lên cột làm cho Mị không cúi, không nghiêng đầu được nữa. Hắn thắt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo, rồi tắt đèn, đi ra, khép cửa buồng lại.

Mị bị trói đứng suốt đêm trong buồng. Tay chân đau không cựa được. Mị nghe tiếng sáo, tiếng chân ngựa đạp vào vách, tiếng chó sủa xa xa. Mị khóc, nín khóc, lại bồi hồi, lúc mê, lúc tỉnh. Mị nghĩ đến các chị vợ anh, vợ chú, những người đàn bà khốn khổ sa vào nhà quan. Mị chợt nhớ lại chuyện một người đàn bà bị chồng trói chết trong nhà thống lí... Mị sợ quá.

Trời tang tảng rồi không biết sáng từ bao giờ. Tiếng người xôn xao khiêng con lợn, hoặc một người phải trói, bị vất huỵch xuống đất thở phè phè. A Sử chệnh choạng vào buồng. Áo rách toạc một mảnh vai, cái khăn xéo trắng loang lổ đầy máu. Hắn lăn ra giường, đứng xung quanh là bọn thị sống, thống quán, xéo phải. Pá Tra tay vẫn cầm roi ngựa, gọi ra ngoài. Mị nhắm mắt lại, rồi hé nhìn ra. Người chị dâu lưng còng đến cời trói cho Mị, và khẽ nói vào tai Mị: “Mị!Đi hái thuốc cho chồng mày”.

Vào rừng tìm lá thuốc, người chị dâu kể lại chuyện A Sử đi chơi bị A Phủ đánh vỡ đầu. Đi hái thuốc lá về, Mị đi cửa sau lé mắt vào thấy một người to lớn quỳ trong góc nhà. Mị đoán đấy là A Phủ. Bọn lí dịch, quan làng, xéo phải, thống quán đội mũ quấn khăn, xách gậy, cười ngựa kéo đến xử kiện và ăn cỗ. Pá Tra và bọn chức việc nằm hút thuốc phiện từ trưa cho đến hết đêm. Khói thuốc phiện tuôn qua các lỗ cửa sổ tun hút xanh như khói bếp. A Phủ quỳ giữa nhà chịu đòn, chỉ im như cái tượng đá. Mặt sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. Suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút.

Trong buồng, đêm hôm đó, Mị phải thức suốt đêm xoa thuốc cho A Sử. Mỏi quá, lại đau ê ẩm, có lúc Mị thiếp đi liền bị hắn đạp chân vào mặt. Ngoài nhà, tiếng hút thuốc phiện rên lên lên từng cơn như mọt nghiến gỗ kéo dài, giữa tiếng khóc, tiếng đấm đánh huỳnh huỵch.

Sáng hôm sau thì đám kiện đã xong. Vì tội đánh con quan làng, đáng nhẽ làng xử A Phủ tội chết, nhưng làng tha cho để được sống và nộp vạ. Tiền phạt, tiền thuốc, tiền lợn, A Phủ phải chịu một trăm đồng bạc trắng. Quan cho A Phủ vay để nộp vạ. A Phủ lê hai cái đầu gối sưng bạnh lên như mặt hổ phù đến nhặt từng đồng bạc trắng, nhặt xong lại đặt lên mặt tráp, Pá Tra trút cả bạc vào trong tráp. A Phủ không phải quỳ, phải đánh nữa. A Phủ đứng lên cầm dao đi chọc tiết lợn hầu làng.

A Phủ trở thành kẻ đi ở trừ nợ cho nhà quan thống lí Pá Tra từ đấy. Đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò, ngoài rừng. Quê A Phủ ở Háng-bla. Bố mẹ, anh em của A Phủ đã chết vì bệnh đậu mùa. A Phủ trơ trọi một mình từ năm mười tuổi, từng bị bán đi cho người Thái ở dưới cánh đồng. Lưu lạc đến Hồng Ngài, đi làm thuê. A Phủ biết đúc lưỡi cày, biết đúc cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo. Nhiều cô gái trong vùng mê. Không có bạc trắng, không có ruộng, không có bố mẹ nên A Phủ không thể lấy nổi vợ. Chỉ có độc một chiếc vòng vía lằn trên cổ nhưng trong những ngày Tết, A Phủ cũng cứ cùng trai làng đem sáo, khèn, đem con quay và quả pao, quả yến đi tìm người yêu ở các làng trong rừng. Vì thế mà sinh sự đánh nhau với A Sử.

Mấy năm sau, một tai hoạ lại trút xuống đầu A Phủ. Năm đó đói rừng, hổ, gấu từng đàn kéo ra bắt bò ngựa, phá nương. A Phủ đi chăn bò, chẳng may hổ bắt mất một con. Pá Tra quát: “Quân ăn cướp làm mất bò tao!”. A Phủ bị Pá Tra trói vào cọc gỗ bằng một cuộn dây mây từ chân đến vai, chỉ còn cổ và đầu hơi lúc lắc được. Pá Tra nói: “Trói cho đến chết nếu không bắt được hổ về”. Đêm đó, A Phủ nhay dứt hai vòng mây thì trời cũng vừa sáng. Pá Tra vào khám, quàng thêm một vòng thòng lọng vào cổ, thế là A Phủ không cúi, không còn lắc được nữa.

A Phủ bị trói như thế đã đến mấy ngày đêm. Đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Đêm nào Mị cũng đậy ra bếp sưởi thường từ lúc gà gáy sáng. Một đêm, Mị lé mắt nhìn sang, thấy một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ. Mị nghĩ đến người đàn bà ngày trước, nghĩ đến kẻ đang bị trói đứng,... Chúng nó thật độc ác. Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết. Mị nghĩ đến thân phận mình cũng chỉ còn biết rũ xương ở đấy thôi... Người kia việc gì mà chết thế. Mị sợ, rồi làm sao Mị cũng không thấy sợ. Đám than đã vạc hẳn lửa. Mị rón rén bước lại, lấy con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. Tháo hết dây trói, Mị thì thào “Đi ngày...”, rồi Mị nghẹn lại. A Phủ khụy xuống, rồi lại quật sức vùng lên, chạy. Mị đứng lặng trong bóng tối, rồi băng đi đuổi kịp A Phủ khi A Phủ đã lăn, chạy tới lưng dốc. Mị nói, thở trong gió thốc lạnh buốt: “A Phủ cho tôi đi… Ở đây thì chết mất". Biết người đàn bà chê chồng đó vừa cứu mình, A Phủ nói: “Đi với tôi”. Hai người đỡ nhau chạy xuống dốc núi. Mị và A Phủ vượt qua những triền núi cao, ăn củ rừng, mộc nhĩ,... đi suốt mùa mưa thì đến khu di tích Phiềng Sa. A Phủ và Mị nên vợ nên chồng từ đấy.

Đến Phiềng Sa, vợ chồng A Phủ vỡ nương, dựng được một ngôi nhà gỗ, nuôi được con lợn nhỡ. Bọn Tây đồn Bản Pe lùng sục tới. Chúng bắt A Phủ khiêng lợn về đồn. A Phủ bị đánh, bị bắt khuân đá, khiêng nước, cái roi tóc của cha mẹ để lại cho cũng bị thằng Tây đè ra cắt mất. A Phủ trốn thoát. A Phủ gặp cán bộ A Châu. Hai người làm lễ ăn sung, kết nghĩa anh em. A Phủ trở thành chiến sĩ du kích, giữ đường cho bộ đội. Bọn Tay đồn Bản Pe lại kéo quân đến càn quét khu du kích Phiềng Sa. Chúng đốt phá, tàn sát dã man. Nhiều đàn bà, trẻ em, trong đó có Mị bị bắt. Được cứu thoát, nhưng Mị vô cùng sợ hãi vì cô nghe tin cha con thống lí Pá Tra đã về ở với bọn Tây đồn Bản Pe. A Phủ ngồi nướng thịt bò tót, làm lương khô chuẩn bị cùng bộ đội đi đánh đồn Bản Pe. A Phủ nạt Mị: “Đây không phải là Hồng Ngài. Đây là khu du kích Phiềng Sa. A Phủ là tiểu đội trưởng du kích...”.

BÀI CÙNG NHÓM