Đang chuẩn bị liên kết để tải về tài liệu:
Chữa phong thấp bằng cách lấy độc trị độc
Đang chuẩn bị nút TẢI XUỐNG, xin hãy chờ
Tải xuống
Hiếm ai trong đời không vài lần bị tê mỏi chân tay hay nhức đau xương khớp (dân gian gọi là phong tê thấp). Bệnh được cải thiện rất hiệu quả bằng phương thuốc cổ nổi tiếng có mã tiền một vị thuốc độc làm chủ đạo. | Chữa phong thấp bằng cách lấy độc trị độc Hiếm ai trong đời không vài lần bị tê mỏi chân tay hay nhức đau xương khớp (dân gian gọi là phong tê thấp). Bệnh được cải thiện rất hiệu quả bằng phương thuốc cổ nổi tiếng có mã tiền - một vị thuốc độc - làm chủ đạo. Phong tê thấp là bệnh khá phổ biến, với những biến chứng tai hại, ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng cuộc sống của người bệnh. Đông y đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý chữa bệnh này, trong đó có việc dùng hạt mã tiền theo nguyên tắc "lấy độc trị độc". Mã tiền giúp thúc đẩy sự vận hành của huyết dịch, trừ khử ứ trệ, thông kinh hoạt lạc, chống tê mỏi và cắt cơn đau. Do đó hầu hết các bài thuốc chữa phong tê thấp đều có nó. Các nghiên cứu hiện đại cho thấy, vị thuốc này khi sử dụng với liều nhỏ sẽ kích thích thần kinh trung ương, làm mạnh tim, giảm đau, chống ho, trừ đờm và tăng tiết dịch vị. Mã tiền sống là thuốc rất độc (bảng A), sau khi bào chế theo phương pháp truyền thống thì độ độc giảm bớt (bảng B), nhưng vẫn chỉ được sử dụng với liều lượng rất nhỏ. Trong Đông y truyền thống, mã tiền chế chủ yếu được dùng chữa trị tê liệt, đau nhức kinh niên do phong thấp hoặc ngoại thương. Trên lâm sàng hiện đại, nó được sử dụng để chữa trị tổn thương phần mềm, viêm khớp xương trong bệnh phong thấp, đau do ung thư, nhược cơ nặng, liệt nửa người do tai biến mạch máu não, bại liệt do ngoại thương. Trong phương "Thuốc phong bà Giằng" nổi tiếng, mã tiền được sử dụng cùng các vị thuốc khác theo cấu trúc "quân - thần -tá -sứ" kinh điển: - Mã tiền là "quân" (vua, tức vị thuốc chủ đạo). - Thương truật là "thần" - vị tể tướng hỗ trợ trực tiếp cho quân vương. Nó tăng cường tác dụng giảm đau của mã tiền. - Hương phụ, mộc hương, thương truật là "tá", tức phụ tá để hạn chế tác dụng phụ của vị thuốc chính. Các vị này giúp tăng tác dụng giảm đau, hạn chế các tác dụng phụ của thuốc. - Địa liền, quế chi là "sứ", tức có tác dụng dẫn đường, đưa thuốc tới vị trí bệnh và điều hòa phương thuốc. Phương thuốc trên phối hợp các vị nóng và lạnh nên có tính bình, thích hợp cho cả người tạng hàn lẫn tạng nhiệt. Sự phối hợp trên lại phát huy được sở trường và hạn chế sự độc hại của mã tiền nên an toàn, ít tác dụng phụ. Nó giúp chữa trị các chứng tê mỏi chân tay, đau xương khớp, đau thần kinh tọa, đau thần kinh liên sườn. do phong tê thấp, đau do gút. Những người bị tiểu đường, tăng mỡ máu, tăng huyết áp và một số chứng bệnh tiêu hóa mạn tính cũng có thể dùng. Bài thuốc phong bà Giằng hiện cũng được bào chế dưới dạng viên nén bao phim để tiện sử dụng và dễ xác định liều lượng hơn. Đó là thuốc Vimatine do Đại học Dược Hà Nội bào chế. Thay vì phải uống hàng chục viên hoàn, bệnh nhân chỉ cần dùng 2-3 viên nén mỗi lần.