Đang chuẩn bị liên kết để tải về tài liệu:
CHƯƠNG 4: Vận dụng Giá cả Thị trường để Định giá
Đang chuẩn bị nút TẢI XUỐNG, xin hãy chờ
Tải xuống
Định giá đầu-vào khi thị trường bị bóp méo và hoạt động kém hiệu quả Có thể tồn tại vô số các bóp méo thị trường. Chúng có khả năng thay đổi cách thức định giá các đầu-vào. Phần còn lại của chương này sẽ bàn đến vấn đề định giá đầu-vào trong điều kiện có các bóp méo như thuế, tác nhân ngoại sinh và sự tồn tại của những công ty có sức mạnh thị trường đáng kể. | CHƯƠNG 4 Vận dụng Giá cả Thị trường để Định giá Đầu-vào-PHẦN4 4.2 Định giá đầu-vào khi thị trường bị bóp méo và hoạt động kém hiệu quả Có thể tồn tại vô số các bóp méo thị trường. Chúng có khả năng thay đổi cách thức định giá các đầu-vào. Phần còn lại của chương này sẽ bàn đến vấn đề định giá đầu-vào trong điều kiện có các bóp méo như thuế tác nhân ngoại sinh và sự tồn tại của những công ty có sức mạnh thị trường đáng kể. Trong khi hai quy tắc đưa ra ở trên vẫn là những nguyên tắc chỉ đường việc áp dụng các nguyên tắc đó sẽ trở nên phức tạp hơn đôi chút khi có các bóp méo thị trường. Định giá đầu-vào khi có thuế Phần lớn các đầu-vào dự án đều có khả năng phải chịu một loại thuế nào đó. Lao động phải chịu thuế lương vật liệu xây dựng phải chịu thuế bán hàng. Có thể có những loại thuế liên quan đến việc chuyển nhượng đất đai hay xây dựng sử dụng trong một dự án. Tuy có thể dùng mức giá thị trường để đo lường chi phí của các đầu-vào bị đánh thuế song việc tính toán là phức tạp hơn đôi chút. Một điểm cần tính đến là mức độ cần phải đưa thuế vào chi phí đầu-vào. Điều thứ hai cần tính đến là tác động tương đối của dự án lên tổng sản lượng và tiêu dùng tư của đầu-vào. Có nghĩa là khi dự án mua các đơn vị đầu-vào thì bao nhiêu trong tổng lượng đầu-vào được mua đó có được từ tăng sản lượng bao nhiêu có được từ giảm tiêu dùng tư Để thực hiện những mục tiêu chương này đưa ra giả định rằng chính phủ thu thuế có vị thế trong phân tích. Ẩn ý ở đây là chi trả thuế chỉ đơn thuần là chuyển nhượng của người nộp thuế cho chính phủ và không được tính là chi phí hay lợi ích. Một quan điểm khác có thể là chính phủ thu thuế không có vị thế. Một ví dụ của tình huống này là phân tích chi phí-lợi ích được tiến hành dưới góc nhìn của các cư dân của một bang. Bất kỳ chi trả nào cho chính quyền Liên bang có thể được coi là chi phí thậm chí ngay cả khi được coi một cách chuẩn xác hơn như chuyển nhượng từ người nộp thuế cho nhà nước sang chính quyền Liên bang. Một ví dụ khác là phân tích chi .