Đang chuẩn bị liên kết để tải về tài liệu:
Khả năng ảnh hưởng của ô nhiễm dầu đến các rạn san hô ở một số khu vực ven biển Việt Nam
Đang chuẩn bị nút TẢI XUỐNG, xin hãy chờ
Tải xuống
Ở những khu vực nghiên cứu (Hạ Long, Cù Lao Chàm, Phú Quốc) có nồng độ dầu luôn ở mức cao, vượt giới hạn cho phép (theo QCVN 10:2008) từ 1,3 đến 19 lần. Như vậy, những vùng biển này đã có biểu hiện của sự ô nhiễm dầu và tác động trực tiếp đến đời sống của các sinh vật thủy sinh. Sự suy giảm số lượng loài, độ phủ và phân bố của san hô đã diễn ra trong những năm gần đây có thể có liên quan đến mức độ ô nhiễm dầu. | Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển T11 (2011). Số 2. Tr 35 - 47 KHẢ NĂNG ẢNH HƯỞNG CỦA Ô NHIỄM DẦU ðẾN CÁC RẠN SAN HÔ Ở MỘT SỐ KHU VỰC VEN BIỂN VIỆT NAM NGUYỄN ðĂNG NGẢI Viện Tài nguyên và Môi trường biển Tóm tắt: Ở những khu vực nghiên cứu (Hạ Long, Cù Lao Chàm, Phú Quốc) có nồng ñộ dầu luôn ở mức cao, vượt giới hạn cho phép (theo QCVN 10:2008) từ 1,3 ñến 19 lần. Như vậy, những vùng biển này ñã có biểu hiện của sự ô nhiễm dầu và tác ñộng trực tiếp ñến ñời sống của các sinh vật thủy sinh. Sự suy giảm số lượng loài, ñộ phủ và phân bố của san hô ñã diễn ra trong những năm gần ñây có thể có liên quan ñến mức ñộ ô nhiễm dầu. Sau sự cố tràn dầu năm 2007 ở khu vực Cù Lao Chàm, nồng ñộ dầu trong nước cao lên ñột biến làm cho các rạn san hô thay ñổi hẳn về cấu trúc, số lượng loài và ñộ phủ. Sự suy giảm của san hô cũng theo sự biến thiên của nồng ñộ dầu trong nước, ở những khu vực gần cảng, bến tầu nồng ñộ dầu cao, ñộ phủ san hô giảm; càng ra xa cảng, nồng ñộ dầu càng giảm dần, quần xã san hô có xu thế tốt hơn. I. MỞ ðẦU Từ khi ñược phát hiện ñến nay, dầu mỏ ñã và ñang là nguồn nguyên liệu vô cùng quý giá của mỗi Quốc gia nói riêng và toàn nhân loại nói chung. Ngày nay sản phẩm của dầu mỏ ñang có mặt trong hầu hết các lĩnh vực ñời sống sinh hoạt hàng ngày của con người cũng như trong hoạt ñộng các ngành công nghiệp. Theo số liệu thống kê thì có khoảng 65 ñến 70% năng lượng ñược sử dụng từ dầu mỏ, chỉ có khoảng 20 ñến 22% từ than, 5 ñến 6% từ năng lượng nước và 8 ñến 12% từ năng lượng hạt nhân (Ngọ, 2010). Việc thăm dò và khai thác dầu khí ñã và ñang diễn ra mạnh nhất trong 1 - 2 thập kỷ qua do nhu cầu năng lượng ngày càng tăng, trong khi nguồn dầu mỏ càng cạn kiệt. ðồng hành với việc khai thác là công ñoạn vận chuyển dầu ñến các nhà máy lọc dầu và ñến nơi tiêu thụ. Qua mỗi công ñoạn ñó thì nguy cơ gây ra sự cố tràn dầu ngoài ý muốn của con người thường xảy ra và gây ô nhiễm môi trường. Các phương tiện tiêu thụ dầu hoạt ñộng trên biển cũng làm ô nhiễm môi trường nghiêm .