tailieunhanh - Báo cáo " Bản chất pháp lí của hợp đồng kì hạn "

Bản chất pháp lí của hợp đồng kì hạn Như vậy, dường như cần phải làm rõ thêm thế nào là “thay đổi nghiêm trọng giá chứng khoán” trong quy định về thông tin nội bộ của Đức. Ví dụ: cần xác định tỉ lệ phần trăm cụ thể về sự thay đổi trong giá chứng khoán được coi là thay đổi nghiêm trọng bởi lẽ cụm từ này khá mơ hồ và cho thấy chuẩn mực để người Đức xác định một thông tin có phải là thông tin nội bộ hay không phụ thuộc quá nhiều vào phản. | NGHIÊN cứu - TRAO Đổl BẲN CHẤT PHÁP LÍ CỦA HỌP ĐÒNG KÌ HẠN Theo khoản 1 Điều 64 Luật thương mại năm 2005 của Việt Nam thì hợp đồng mua bán hàng hoá qua sở giao dịch hàng hoá bao gồm hợp đồng kì hạn và hợp đồng quyền chọn. Mỗi loại hợp đồng có những đặc trưng riêng xuất phát từ đặc thù của quan hệ mua bán hàng hoá qua sở giao dịch hàng hoá. Bài viết này chỉ bàn về hợp đồng kì hạn với tư cách là hợp đồng cơ bản của quan hệ này. Thứ nhất Về tên gọi. Hợp đồng kì hạn được dịch từ tiếng Anh là Futures contract . Hợp đồng kì hạn được xác lập khi các bên mua bán hàng hoá tương lai thông qua sở giao dịch hàng hoá. Thuật ngữ này dùng để phân biệt với hợp đồng triển hạn tiếng Anh là Forward contract -loại hợp đồng mua bán tương lai nhưng không thực hiện qua sở giao dịch hàng hoá mà do các bên trực tiếp thiết lập. Luật thương mại năm 2005 của Việt Nam sử dụng thuật ngữ hợp đồng kì hạn để chỉ quan hệ mua bán hàng hoá tương lai qua sở giao dịch hàng hoá. Quan điểm khi xây dựng Luật cũng trùng với quan điểm của các nhà nghiên cứu ở Viện nghiên cứu thương mại Bộ thương mại về vấn đề này. 1 Tuy nhiên bàn về tên gọi này có ý kiến cho rằng việc sử dụng thuật ngữ Hợp đồng kì hạn trong Luật thương mại năm 2005 là chưa thực sự chuẩn xác. Bởi vì nếu dịch từ tiếng Anh Futures contract có nghĩa là Ths. NGUyẾN THỊ YẾN hợp đồng tương lai hay hợp đồng giao sau chứ không phải hợp đồng kì hạn . Những người theo quan điểm này sử dụng thuật ngữ hợp đồng kì hạn để chỉ hợp đồng mua bán hàng hoá tương lai ngoài sở giao dịch hàng hoá Forward contract . 2 Về ý kiến cá nhân chúng tôi cho rằng việc sử dụng thuật ngữ hợp đồng kì hạn hay hợp đồng tương lai hợp đồng giao sau cho quan hệ mua bán hàng hoá qua sở giao dịch hàng hoá không thực sự quan trọng bằng nội hàm của khái niệm này. Khi Luật thương mại năm 2005 định nghĩa về hợp đồng kì hạn chúng ta đều hiểu rằng đó là hợp đồng mua bán hàng hoá tương lai qua sở giao dịch hàng hoá mà không phải là hợp đồng mua bán hàng hoá tương lai được kí trực tiếp giữa

TỪ KHÓA LIÊN QUAN