tailieunhanh - Báo cáo " Những điểm mới cơ bản trong Luật Hợp tác xã năm 2003"

Những điểm mới cơ bản trong Luật Hợp tác xã năm 2003 Trong bộ máy nhà nước phong kiến, ngự sử đài và đô sát viện thực hiện quyền đàn hạch bách quan và trưởng đô sát viện là quan chức có thế lực cao chỉ dưới vua và tể tướng và chỉ trực thuộc vua. Trước đây, viện kiểm sát nhân dân là cơ quan chuyên môn vừa thực hiện chức năng công tố vừa thực hiện chức năng giám sát chung cũng là hợp lí vì chức năng công tố và chức năng giám sát có thể tương. | NGHIÊN cứu - TRAO Đổl NHỮNG ĐIỀM MỚI co BẢN TRONG LUẬT HỌP TẤC XẪ NẪM 2003 Ngày 26 11 2003 Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam đã thông qua Luật hợp tác xã mới. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 1 7 2004. Bài viết này đề cập những vấn đề mới cơ bản trong Luật hợp tác xã năm 2003 so với Luật hợp tác xã năm 1996. 1. Những điểm mới về địa vị pháp lý của hợp tác xã Điểm mới đầu tiên trong phần này là vấn đề các pháp nhân từ nay cũng có thể trở thành xã viên hợp tác xã. Quy định như vậy là thích hợp vì hiện nay có nhiều pháp nhân có nguyện vọng và nhu cầu gia nhập hợp tác xã để có thể phát huy được các tiềm năng và thế mạnh của mình. Từ lâu nhiều nước trên thế giới cũng đã có quy định như vậy trong luật hợp tác xã của họ. Điểm mới thứ hai là chính sách của Nhà nước đối với hợp tác xã đã được quy định đầy đủ hơn thành sáu điểm trong Điều 3 và cách thể hiện rất cụ thể và thiết thực như - Nhà nước ban hành và thực hiện các chính sách các chương trình hỗ trợ phát triển hợp tác xã về đào tạo cán bộ phát triển nguồn nhân lực đất đai tài chính tín dụng xây dựng quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã áp dụng khoa học và công nghệ tiếp thị và mở rộng thị trường đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng tạo điều kiện để hợp tác xã được tham gia các chương . TRẦN NGỌC DŨNG trình phát triển kinh tế- xã hội của Nhà nước - Nhà nước bảo đảm địa vị pháp lý và điều kiện sản xuất - kinh doanh của hợp tác xã bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác - Nhà nước không can thiệp vào công việc quản lý nội bộ và hoạt động hợp pháp của hợp tác xã. Ở nông thôn và trong ngành nông nghiệp nơi tập trung đến 70 dân số nước ta Chính phủ quy định cụ thể chính sách ưu đãi đối với hợp tác xã nông nghiệp phù hợp với đặc thù và trình độ phát triển trong từng thời kỳ. Quy định như vậy trong khoản 2 Điều 3 Luật hợp tác xã năm 2003 là thích hợp vì trình độ dân trí khả năng kinh tế năng suất lao động. ở nhiều vùng nông thôn của nước ta vẫn còn rất thấp và có nhiều hạn chế. Chính phủ có áp dụng các biện pháp ưu

TỪ KHÓA LIÊN QUAN