tailieunhanh - Đánh giá sinh trưởng của keo lai trồng tại Krông Bông Đăklăk

Rừng không những có vai trò to lớn trong việc hình thành môi trường, điều hòa khí quyển mà còn có vai trò xã hội to lớn. Hiện nay rừng trên thế giới nói chung và rừng tại nước ta nói riêng đang bị suy thoái nghiêm trọng về cả chất lượng và số lượng. Những hoạt động khai thác,sử dụng tài nguyên rừng vào những mục đích kinh tế của con người đang làm rừng dần biến mất khỏi trái đất. Những diễn biến xấu ấy sẽ gây ra những ảnh hưởng hết sức bất lợi đến cho cuộc sống của con người. | Đặc điểm gỗ cũng chịu ảnh hưởng của các biện pháp kỹ thuật gây trồng cũng như điều kiện lập địa, đồng thời liên quan chặt chẽ tới các sản phẩm hàng hóa. Cấu tạo gỗ là yếu tố chủ yếu nhất ảnh hưởng đến tính chất gỗ. Cấu tạo và tính chất liên quan mật thiết với nhau, cấu tạo có thể xem là biểu hiện bên ngoài của tính chất. Những hiểu biết về cấu tạo gỗ là cơ sở để giải thích bản chất các hiện tượng sản sinh trong quá trình gia công chế biến và sử dụng gỗ (Lê Xuân Tình, 1998) . Gần đây đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề này, điển hình là nghiên cứu của Lê Đình Khả (1999) về tiềm năng bột giấy của một số dòng Keo lai ở nước ta, nghiên cứu đã chỉ ra rằng gỗ Keo lai có tỷ trọng trung gian giữa Keo tai tượng và Keo lá tràm, có khối lượng gấp 3 - 4 lần so với giống bố mẹ. Ở giai đoạn 4 năm tuổi tỷ trọng gỗ của Keo lai trung bình khoảng 0,455g/cm3, trong khi đó Keo tai tượng là 0,414g/cm3, Keo lá tràm là 0,469g/cm3. Các dòng Keo lai được lựa chọn có tỷ trọng gỗ và tính chất co rút của gỗ khác nhau, trong đó các dòng BV32, BV33 có tỷ trọng cao nhất, dòng BV16 gỗ không bị nứt khi phơi khô. Cũng với kết quả nghiên cứu về tiềm năng sử dụng gỗ Keo lai và những điều cần lưu ý trong trồng rừng, Phạm Thế Dũng (2002) đã đưa ra một số kết luận về tiềm năng làm bột giấy của Keo lai: Khối lượng thể tích gỗ Keo lai là trung gian của 2 loài bố mẹ, ở tuổi 7 Keo lai có khối lượng thể tích gỗ 0,455tấn/m3so với 0,414 tấn/m3 của Keo lá to và 0,469 tấn/m3 của Keo lá nhỏ; Tổng số các chất làm bột giấy (Xenlulô, Lignin, Pentozan) trong Keo lai là 95,2% so với 93,45% của Keo lá tràm và 94,2% trong Keo tai tượng; Năng suất làm bột trên 1m3 của gỗ Keo lai là 232kg/m3, Keo lá tràm là 233kg/m3 và Keo tai tượng là 195kg/m3. Khối lượng gỗ đặc trên 1 tấn bột của Keo lai là 4,3m3, ở Keo lá tràm là 4,48m3/1 tấn bột và Keo tai tượng là 5,2m3/1 tấn bột; Ở Keo lai, độ bền cơ học của bột giấy trước và sau khi tẩy qua các chỉ số độ chịu kéo, độ gấp, tro và độ tẩy trắng đều cao hơn nhiều so với 2 loài bố mẹ.

TÀI LIỆU LIÊN QUAN
TỪ KHÓA LIÊN QUAN
TÀI LIỆU MỚI ĐĂNG
54    163    0    28-12-2024