tailieunhanh - Hệ điều hành - các dịch vụ hệ điều hành - Nguyễn Phú Trường - 2
Do đó, thông tin này có thể cần được hoán vị vào và ra bộ nhớ, yêu cầu thủ tục trình điều khiển lưu trữ dự phòng nằm bên dưới bộ định thời CPU. Vấn đề cuối cùng với các cài đặt phân tầng là chúng có khuynh hướng ít hiệu quả hơn các loại khác. Thí dụ, khi chương trình người dùng thực thi thao tác nhập/xuất, nó thực thi một lời gọi hệ thống. Lời gọi hệ thống này được bẫy (trapped) tới tầng nhập/xuất, nó yêu cầu tầng quản lý bộ nhớ, sau đó gọi tầng định. | Đại Học Cần Thơ - Khoa Công Nghệ Thông Tin - Giáo Trình Hệ Điều Hành - định thời có thể có nhiều thông tin hơn về tất cả quá trình đang hoạt động hơn là có thể đặt vừa trong bộ nhớ. Do đó thông tin này có thể cần được hoán vị vào và ra bộ nhớ yêu cầu thủ tục trình điều khiển lưu trữ dự phòng nằm bên dưới bộ định thời CPU. Vấn đề cuối cùng với các cài đặt phân tầng là chúng có khuynh hướng ít hiệu quả hơn các loại khác. Thí dụ khi chương trình người dùng thực thi thao tác nhập xuất nó thực thi một lời gọi hệ thống. Lời gọi hệ thống này được bẫy trapped tới tầng nhập xuất nó yêu cầu tầng quản lý bộ nhớ sau đó gọi tầng định thời CPU sau đó được truyền tới phần cứng. Tại mỗi tầng các tham số có thể được hiệu chỉnh dữ liệu có thể được truy ền . .Mỗi tầng thêm chi phí cho lời gọi hệ thống kết quả thực sự là lời gọi hệ thống mất thời gian lâu hơn khi chúng thực hiện trên hệ thống không phân tầng. Hình 0-5 Cấu trúc phân tầng của OS 2 Những giới hạn này gây một phản ứng nhỏ chống lại việc phân tầng trong những năm gần đây. Rất ít các tầng với nhiều chức năng được thiết kế cung cấp nhiều lợi điểm của mã được module trong khi tránh những vấn đề khó khăn của định nghĩa và giao tiếp tầng. Thí dụ OS 2 bổ sung thêm tính năng đa tác vụ và điều hành hai chế độ cùng một số đặc điểm mới. Vì tính phức tạp được bổ sung và phần cứng mạnh hơn mà OS 2 được thiết kế hệ thống được cài đặt trong dạng phân tầng. Vi nhân Microkernels Khi hệ điều hành UNIX được mở rộng nhân trở nên lớn và khó quản lý. Vào giữa những năm 1980 các nhà nghiên cứu tại đại học Carnegie Mellon phát triển một hệ điều hành được gọi là Match mà module hóa nhân dùng tiếp cận vi nhân micro kernel . Phương pháp này định kiến trúc của hệ điều hành bằng xóa tất cả thành phần không quan trọng từ nhân và cài chúng như các chương trình cấp người dùng và hệ thống. Kết quả này làm cho nhân nhỏ hơn. Có rất ít sự nhất trí liên quan đến việc quyết định dịch vụ nào nên để lại trong nhân và dịch vụ nào nên được cài đặt .
đang nạp các trang xem trước