tailieunhanh - CHƯƠNG 2 PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP

KHÁI NIỆM DOANH NGHIỆP Khái niệm hành vi kinh doanh - Kinh doanh là việc các chủ thể thực hiện một cách thường xuyên, liên tục một, một số hoặc toàn bộ các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm trên thị trường nhằm mục đích tìm kiêm lợi nhuận - Có hai điểm cơ bản để phân biệt hoạt động kinh doanh với các hoạt động xã hội khác không phải là kinh doanh, ngay cả với hoạt động quản lý nhà nước kinh tế (i) Để tiến. | CHƯƠNG 2 PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP KHÁI NIỆM DOANH NGHIỆP Khái niệm hành vi kinh doanh - Kinh doanh là việc các chủ thể thực hiện một cách thường xuyên liên tục một một số hoặc toàn bộ các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm trên thị trường nhằm mục đích tìm kiêm lợi nhuận - Có hai điểm cơ bản để phân biệt hoạt động kinh doanh với các hoạt động xã hội khác không phải là kinh doanh ngay cả với hoạt động quản lý nhà nước kinh tế i Để tiến hành kinh doanh các chủ thể phải đầu tư về tài sản ii Mục đích của các chủ thể khi tiến hành hoạt động này là lợi nhuận Khái niệm phân loại doanh nghiệp - Định nghĩa doanh nghiệp Doanh nghiệp được hiểu là những pháp nhân hay thể nhân thực hiện trên thực tế những hành vi kinh doanh. - Doanh nghiệp có những đặc điểm pháp lý sau Thứ nhất Doanh nghiệp có tư cách chủ thể pháp lý độc lập có năng lực để tham gia các quan hệ pháp luật trong đó trước hết và chủ yếu là các quan hệ kinh doanh. Tính chất chủ thể pháp lý độc lập cho phép doanh nghiệp có quyền tự chủ đồng thời phải tự chịu trách nhiệm trong việc tổ chức hoạt động. Tư cách chủ thể pháp luật của doanh nghiệp có thể là tư cách của thể nhân hoặc pháp nhân. i Pháp nhân là một khái niệm được sử dụng để chỉ một loại chủ thể có tư cách pháp lý độc lập để phân biệt với các chủ thể là thể nhân. Pháp nhân là một thực thể trừu tượng được hư cấu thể hiện tình trạng tách bạch về mặt tài sản và trách nhiệm trả nợ của chính pháp nhân đó với tài sản còn lại và trách nhiệm trả nợ của chủ sở hữu - người đã sáng tạo ra nó. Pháp nhân chịu trách nhiệm đối với mọi chủ nợ bằng tất cả mọi thứ tài sản mà nó có - có nghĩa là pháp nhân được giới hạn khả năng trả nợ trong phạm vi tài sản của nó. Chủ sở hữu - người sáng tạo ra pháp nhân - không chịu trách nhiệm thay cho pháp nhân họ chỉ có nghĩa vụ góp vốn để thành lập pháp nhân. Nếu pháp nhân vỡ nợ thì họ chỉ mất số vốn đã góp vào pháp nhân ngoài ra họ không phải chịu bất cứ trách nhiệm gì nữa chủ nợ không thể .