tailieunhanh - Danh nhân lịch sử: Mai Thúc Loan

Mai Thúc Loan ( - Quí Hợi 723) Anh hùng dân tộc chống cuộc đô hộ nhà Đường, tự lập xưng đế. Vì tướng mạo ông đen sạm, nên đương thời nhân dân gọi ông là Mai Hắc Đế. Người xã Mai Phụ, huyện Thiên Lộc, phủ Đức Thọ, tĩnh Hà Tĩnh. Năm Nhâm Tuất 722, ông cùng con là Mai Thúc Huy dấy binh khởi nghĩa đánh đuổi quân nhà Đường, chiếm phủ thành, tự lập làm vua. Ông sai con là Mai Thúc Huy vận động ngoại giao liên kết với nước Lâm Ấp (Chiêm thành) và Chân. | Mai Thúc Loan Mai Thúc Loan . - Quí Hợi 723 Anh hùng dân tộc chống cuộc đô hộ nhà Đường tự lập xưng đế. Vì tướng mạo ông đen sạm nên đương thời nhân dân gọi ông là Mai Hắc Đế. Người xã Mai Phụ huyện Thiên Lộc phủ Đức Thọ tĩnh Hà Tĩnh. Năm Nhâm Tuất 722 ông cùng con là Mai Thúc Huy dấy binh khởi nghĩa đánh đuổi quân nhà Đường chiếm phủ thành tự lập làm vua. Ông sai con là Mai Thúc Huy vận động ngoại giao liên kết với nước Lâm Âp Chiêm thành và Chân Lạp Campuchia để gây thanh thế với lân bang. Ông giữ vùng hiểm yếu Sa Nam Nam Đàn làm căn cứ chính đóng bản doanh ở núi Vệ dựng điện phủ đặt tên là Vạn An. Quan đô hộ nhà Đường xin binh tiếp cứu vua Đường Huyền tông cử Nội thị tả giám môn vệ tướng quân là Dương Tư Húc đem quân sang đàm áp. Trước sức tiến công của địch thế cô Mai Thúc Loan rút quân chạy về đóng giữ ở núi Vệ chẳng bao lâu ông bị bệnh mất đột ngột vào năm Quí Hợi 723. Nay ở núi Vệ huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An cũ còn di tích cổ thành của Mai Hắc Đế và ở xã Hương Lãm huyện Nam Đàn có đền thờ Mai Hắc Đế và Mai Thúc Huy. Về sau các triều đại nối tiếp vẫn truy phong và liệt thờ cha con ông nơi miếu Lịch đại đế vương. Mai Văn Chung Mai Văn Chung Văn Chung 1914-1984 Mai Văn Chung 1914-1984 . Mai Văn Chung là nhạc sĩ bút danh Văn Chung sinh năm 1914 tại Hà Nội. Quê ở Cống Vân xã Tân Hưng huyện Tiên Lữ. Văn Chung thuộc vào thế hệ nhạc sĩ sáng tác tiêu biểu của nền âm nhạc hiện đại Việt Nam. Tác phẩm nhạc mới đầu tay là bài Tiếng sáo chăn trâu ra đời năm 1935. Đây cũng là một trong những sáng tác đầu tiên của nền âm nhạc mới Việt Nam. Từ đó cho đến tháng 8 năm 1945 ông đã viết được gần 30 bài hát và bản nhạc cho đàn dân tộc tiêu biểu là các ca khúc Bên hồ liễu 1936 Bóng ai qua thềm 1937 Hồ xuân và thiếu nữ 1939 . Hoạt động âm nhạc bằng tự học. Ông sử dụng nhạc cụ và sáng tác nhạc mới. Ông cũng là một trong những người sáng lập và tổ chức nhà xuất bản TRICEA chuyên in và phát hành các ca khúc mới của Việt Nam để chống lại ảnh hưởng của nhạc Tây - Tầu. Ông là một trong .