tailieunhanh - NHẬP MÔN - SINH HỌC TẾ BÀO - PHÂN TỬ
Tế bào trong cơ thể chúng ta có kích thước nhỏ gấp 5 lần ngưỡng nhìn thấy của mắt thường. Kích thước của các bào quan trong tế bào còn nhỏ hơn nhiều lần, do đó, lịch sử nghiên cứu tế bào gắn liền với sự phát triển của các phương tiện kỹ thuật cùng các ngành vật lý và hoá học. | NHẬP MÔN - SINH HỌC TẾ BÀO - PHÂN TỬ I. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ - CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Tế bào trong cơ thể chúng ta có kích thước nhỏ gấp 5 lần ngưỡng nhìn thấy của mắt thường. Kích thước của các bào quan trong tế bào còn nhỏ hơn nhiều lần do đó lịch sử nghiên cứu tế bào gắn liền với sự phát triển của các phương tiện kỹ thuật cùng các ngành vật lý và hoá học. Kính hiển vi quang học KHVQH được sáng chế khoảng giữa thế kỷ XVII và Robert Hook 1655 quan sát được các hốc trống trong thân cây bấc ông gọi là khoang cell khoang tế bào . Giữa thế kỷ XIX Học thuyết tế bào ra đời Schleiden và Schwann với luận điểm cơ bản cơ thể động và thực vật được cấu tạo bởi các tế bào có nhân . Vào lúc này các nhà khoa học chỉ biết rằng tế bào gồm có màng nguyên sinh chất và nhân. Kính hiển vi điện tử KHVĐT ra đời gồm KHVĐT xuyên và KHVĐT quét- Hình Hồng cầu dưới KHVĐT quét trong những năm 30 thế kỷ XX cho phép quan sát các bào quan nhỏ bên trong tế bào. Tuy nhiên cả KHVQH và KHVĐT chỉ cho phép nghiên cứu các cấu trúc bất động mà thôi. Trong thực tế cấu trúc sinh học luôn vận động và chỉ có trong vận động chúng mới thể hiện đầy đủ chức năng sinh học của mình. Máy siêu ly tâm ra đời 1926- Svedberg cùng các phương pháp hoá lý khác như sắc ký điện di lọc phân tử . cho phép phân tách tách chiết các thành phần riêng biệt của tế bào. Nhờ đó có thể nghiên cứu khối lượng kích thước thành phần hoá học của chúng và thực hiện các mô hình trộn chúng trở lại với nhau để xác định các sản phẩm của chúng hệ thống tái lắp ráp . Việc theo dõi xác định các sản phẩm sinh học được thực hiện nhờ các quá trình đánh dấu qua việc sử dụng các chất đồng vị phóng xạ và phương pháp phóng xạ tự chụp hoặc bằng phương pháp hoá mô miễn dịch. Cuối thập niên 70 phương pháp tái tổ hợp ADN ra đời nhờ đó người ta có thể lập được bản đồ gen giải mã một gen lạ nhanh chóng hoặc đưa một gen mong muốn vào tế bào sản xuất ra các sản phẩm của gen với một khối lượng lớn .Các lĩnh vực này tạo thành ngành di truyền ngành công nghệ gen .
đang nạp các trang xem trước