tailieunhanh - CÁCH SỬ DỤNG MÁU VÀ CÁC CHẾ PHẨM TỪ MÁU

Ngành huyết học hiện đại đề nghị chỉ truyền cho BN thành phần của máu mà họ cần, nghĩa là nên dùng các chế phẩm từ máu. Do đó, máu toàn phần ít khi dùng, ngoại trừ lọc thay máu ở trẻ sơ sinh. Một đơn vị máu toàn phần chứa 435-500 ml máu và chất chống đông là CPDA-1 (citrate phosphate dextrose adenine). Máu toàn phần không còn là toàn phần ở thời điểm truyền vì 24 giờ sau khi lấy máu, tiểu cầu và một số yếu tố đông máu giảm. Sau 72 giờ, hầu như không. | CÁCH SỬ DỤNG MÁU VÀ CÁC CHẾ PHẨM TỪ MÁU I. MÁU VÀ CÁC CHẾ PHẨM TỪ MÁU 1. Máu toàn phần Ngành huyết học hiện đại đề nghị chỉ truyền cho BN thành phần của máu mà họ cần nghĩa là nên dùng các chế phẩm từ máu. Do đó máu toàn phần ít khi dùng ngoại trừ lọc thay máu ở trẻ sơ sinh. Một đơn vị máu toàn phần chứa 435-500 ml máu và chất chống đông là CPDA-1 citrate phosphate dextrose adenine . Máu toàn phần không còn là toàn phần ở thời điểm truyền vì 24 giờ sau khi lấy máu tiểu cầu và một số yếu tố đông máu giảm. Sau 72 giờ hầu như không còn tiểu cầu sống và mất hoạt tính của yếu tố VIII trong máu toàn phần . Máu toàn phần có ưu điểm là cùng lúc cung cấp thể tích và cải thiện khả năng chuyên chở oxygen. Tuy nhiên điều này cũng có thể thực hiện bằng cách truyền hồng cầu lắng và dịch tinh thể. Bất lợi của máu toàn phần là chứa rất ít yếu tố đông máu có lượng kali cao H ammonia BN nhận một lượng lớn kháng nguyên và bị quá tải thể tích trước khi đạt mức dung tích hồng cầu mong muốn. 1 2. Máu tươi Máu tươi là máu vừa được lấy 6 giờ có Hct 35 có các yếu tố đông máu và tiểu cầu. Một đơn vị máu tươi có hiệu quả cầm máu tốt như 10 đơn vị tiểu cầu. Tuy nhiên không phải lúc nào cũng có máu tươi để dùng. CÁC CHẾ PHẨM TỪ MÁU Một đơn vị máu vừa được lấy máu sẽ được tách ra từng thành phần hồng cầu tiểu cầu plasma tủa đông. Kỹ thuật này cho phép sử dụng tối đa các thành phần của máu và cách lưu trữ thích hợp. 1. Hồng cầu lắng Hồng cầu lắng được lấy ra từ máu toàn phần bằng cách rút bớt 80-90 plasma. Dung dịch bảo dưỡng chứa dextrose adenine và mannitol cho phép dự trữ được 42 ngày. Hồng cầu lắng được giữ ở 4o C. Mỗi đơn vị hồng cầu lắng có thể tích 250 ml có Hct 70 sẽ làm tăng hemoglobine lên 1 g dL hay 3 Hct. Sau khi truyền có 70 hồng cầu sống sau 24 giờ và những hồng cầu này có đời sống sinh học bình thường. Hồng cầu lắng không chứa yếu tố đông máu nên sau khi truyền nhanh khoảng 5 đơn vị hồng cầu lắng thì phải truyền plasma tươi đông lạnh. Ưu điểm của hồng cầu lắng so với máu toàn phần