tailieunhanh - HỒI SỨC TIM-PHỔI (CARDIOPULMONARY RESUSCITATION)

1/ HỒI SỨC TIM-PHỔI (CPR : CARDIOPULMONARY RESUSCITATION) NGHĨA LÀ GÌ ? Đối với hầu hết mọi người, hồi sức tim-phổi (CPR) để chỉ BLS (basic life support, hồi sức tim-phổi cơ bản), bao gồm hô hấp cấp cứu (rescue breathing) và xoa bóp lồng ngực kín (closed-chest compressions). Đối với nhân viên y tế, thuật ngữ chỉ rộng rãi hơn và bao gồm ACLS (advanced cardiac life support, hồi sức tim-phổi cao cấp), PALS (pediatric life support), và ATLS (advanced trauma life support) | HỒI SỨC TIM-PHỔI CARDIOPULMONARY RESUSCITATION 1 HỒI SỨC TIM-PHỔI CPR CARDIOPULMONARY RESUSCITATION NGHĨA LÀ GÌ Đối với hầu hết mọi người hồi sức tim-phổi CPR để chỉ BLS basic life support hồi sức tim-phổi cơ bản bao gồm hô hấp cấp cứu rescue breathing và xoa bóp lồng ngực kín closed-chest compressions . Đối với nhân viên y tế thuật ngữ chỉ rộng rãi hơn và bao gồm ACLS advanced cardiac life support hồi sức tim-phổi cao cấp PALS pediatric life support và ATLS advanced trauma life support . 2 KHI NÀO THÌ HỒI SỨC TIM-PHỔI CPR ĐƯỢC CHỈ ĐỊNH Hồi sức tim-phổi nên được thực hiện cho những ai muốn được hồi sức miễn là có một cơ may đáng kể hồi phục có ý nghĩa. Khi ước muốn của bệnh nhân không rõ ràng hồi sức tim-phổi cần được phát khởi sự hổ trợ có thể được rút đi vào một thời điểm sau đó. Dĩ nhiên không nên bắt đầu hồi sức tim-phổi nơi bệnh nhân NTBR not to be resuscitated không phải hồi sức hay DNR do not resuscitate đừng hồi sức . Điều chủ yếu là bắt đầu CPR càng nhanh càng tốt vì lẽ mỗi giây trôi qua đều là quan trọng. 3 TỶ LỆ NGỪNG TIM-PHỔI DO ĐIỀU TRỊ IATROGENIC CARDIOPULMONARY ARREST Ngừng tim do điều trị có lẽ xảy ra quá thường hơn điều ta nghĩ. Không nghi ngờ gì những sai lầm do bỏ sót hay ủy thác góp phần vào tỷ lệ và tiên lượng xấu của ngừng tim-phổi trong bệnh viện in-hospital cardiopulmonary arrests . Trong một công trình nghiên cứu của Bedell và Fulton trên 562 trường hợp ngừng tim-hô hấp trong bệnh viện một chẩn đoán quan trọng không được nghỉ ngờ hiện diện và không được chứng tỏ bởi giải phẫu tử thi trong 14 các trường hợp. Hai chẩn đoán bỏ sót thông thường nhất là nghẽn mạch phổi pulmonary embolus và nhồi máu ruột bowel infarction hai bệnh lý này hợp lại chịu trách nhiệm 89 tất cả các tình trạng bệnh lý bị bỏ sót. Những xem xét lại cho thấy rằng có lẽ có đến 15 các trường hợp ngừng tim trong bệnh viện in-hospital arrests là có thể tránh được. Những trường hợp này có thể được quy cho suy hô hấp và xuất huyết thường không được phát hiện hay được chẩn đoán .