tailieunhanh - NGOẠI KHOA

Gây mê và khử trùng Trước khi có các phát minh về tiệt trùng, khử khuẩn, thì tỉ lệ các vết thương bị nhiễm khuẩn và tình trạng tử vong do nhiễm khuẩn rất cao gây ảnh hưởng lớn đến kết quả phẫu thuật trong nhiều thế kỷ. + Vào năm 1840, bác sỹ sản khoa người Hungari Ignaz Semmelweis và Oliver Wendell đã tiến hành khử trùng buồng đỡ và môi trường xung quanh bằng vôi và khử trùng tay người đỡ đẻ bằng dung dịch clo. + Việc ứng dụng phương pháp gây mê trong phẫu thuật vào. | NGOẠI KHOA Gây mê và khử trùng Trước khi có các phát minh về tiệt trùng khử khuẩn thì tỉ lệ các vết thương bị nhiễm khuẩn và tình trạng tử vong do nhiễm khuẩn rất cao gây ảnh hưởng lớn đến kết quả phẫu thuật trong nhiều thế kỷ. Vào năm 1840 bác sỹ sản khoa người Hungari Ignaz Semmelweis và Oliver Wendell đã tiến hành khử trùng buồng đỡ và môi trường xung quanh bằng vôi và khử trùng tay người đỡ đẻ bằng dung dịch clo. Việc ứng dụng phương pháp gây mê trong phẫu thuật vào năm 1840 được coi là phát minh vĩ đại nhất trong lịch sử của y học. Vào năm 1842 bác sĩ Crawford W. Long người Georgia đã sử dụng phương pháp gây mê ête để cắt bỏ những khối u nhỏ trên da. Năm 1844 đã nghiên cứu sử dụng protoxydazot để gây mê. Năm 1898 Augurt Bier đã đề xuất phương pháp gây tê tủy sống. Năm 1947 . Simpson người Anh đã sử dụng cloroform để gây mê và dùng cocain để gây tê từ năm 1884. Năm 1904 Eichnom sử dụng novocain để gây tê tại chỗ. Việc Jame Young Simpson công bố phương pháp gây mê trong phẫu thuật đã mở ra một kỷ nguyên mới cho sự phát triển của ngoại khoa. Mặc dù kính lúp và kính hiển vi đã được Leuenhook 1632 - 1723 phát minh từ những thế kỷ trước nhưng mãi tới thế kỷ XIX mới có những phát hiện về vi sinh vật. Năm 1864 nhà khoa học người pháp Louis Pasteur đã phát triển lý thuyết mầm bệnh và đề xuất phương pháp dùng nhiệt để tiệt khuẩn. Joseph Listera sinh năm 1827 ở Essex là người đã có công phát triển và ứng dụng các nguyên lý khử trùng trong thực hành ngoại khoa. Quy trình khử trùng bằng cách nhúng dụng cụ phẫu thuật vào dung dịch axít carboxylic và xịt hơi nước để khử trùng môi trường trong phòng mổ đã được Lister công bố vào năm 1867. Năm 1882 Robert Kock đã phân lập được trực khuẩn lao. Từ năm 1881 phương pháp khử khuẩn bằng các nồi hơi với áp suất cao đã được áp dụng khá rộng rãi. William Halsted đã đề xuất sử dụng găng tay cao su dùng trong phẫu thuật từ năm 1890. Năm 1994 Jgnaz Phillip Smelwis người Hunggary đã đề xuất cần rửa sạch bàn và ngón tay bằng dung

TỪ KHÓA LIÊN QUAN
TÀI LIỆU MỚI ĐĂNG